Nhân lộ sạch
Khi chế độ độc đảng toàn trị của ĐCSVN bị bứng đi, thì chính quyền trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, cùng lúc phải trong môi sinh, cụ thể là có một quốc sách với quyết tâm trọn vẹn lấy lại sự thật và biểu tượng: Việt Nam, quê hương gấm vóc. Một sự thật và một biểu tượng đã bị mất từ khi ĐCSVN cầm quyền và đã ô uế hóa môi trường, đồi bại hóa môi sinh, biến đất Việt thành bãi rác của Tàu nạn, với các hiểm nạn của khai thác bốc xít tại Tây Nguyên, nhà máy thép Formosa tại Hà Tĩnh, tới mạng lưới nhiệt điện than trùm phủ lên cả nước, gây hiểm họa môi trường từ không khí tới đất, nước, biển.
Lập lại tên gọi Việt Nam, quê hương gấm vóc với các kinh nghiệm thành công về môi trường của nhiều quốc gia, trong đó không những có kinh nghiệm của các quốc gia từ Tây Âu tới Bắc Mỹ, mà nhất là các quốc gia láng giềng ngày tại Á Châu trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, biết bảo vệ môi trường, biết bảo trọng môi sinh. Và ta không quên sự thành công của Costa-Rica, quý tài nguyên, trọng thiên nhiên, yêu môi trường, đã biến môi sinh thành sức mạnh của chính mình không những về du lịch mà cả về quan niệm đạo đức trước mỗi sinh vật, một quan niệm nâng nhân trí và nhân tri.
Nhận ra nhân lộ tương lai cho dân tộc vẫn chưa đủ, mọi công dân Việt còn phải hành động ngay trên nhân lộ này, để thay đời đổi kiếp của mình theo hướng tiến bộ nhân tri, phát triển nhân trí để tiếp nhận văn minh cho nhân bản và nhân vị cho mình và cho dân tộc của mình. Cụ thể là đặt hoài bão của mình vào các phương án trực tiếp phục vụ tiến bộ nhân tri, phát triển nhân trí để trực tiếp thăng hoa nhân quyền, ngay trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, với cơ chế của thật sự cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) với định chế của thật sự dân chủ (đa nguyên, đa đảng, đa trí).
Khi chữ sạch là gốc, rễ, cội, nền cho mọi quốc sách để nhận trở lại quốc hiệu Việt Nam, quê hương gấm vóc, thì phải sạch từ trên xuống dưới, định chế sạch với lãnh đạo sạch, nơi mà tà quyền trong phản xạ quan hệ-hậu duệ-tiền tệ không có chỗ đứng trong một chế độ mới trọng đa nguyên vì trọng đa tài, yêu dân chủ để bảo vệ cộng hòa, quý nhân quyền để giữ nhân phẩm. Trong chế độ mới này, “luật chơi dân chủ-sân chơi nhân quyền-trò chơi đa nguyên” không có ghế ngồi cho sinh hoạt bạo quyền độc đảng toàn trị, chỉ biết thanh trừng giữa các đồng chí bằng các thủ đoạn man rợ. Độc đảng để độc quyền hoàn toàn ngược lại với tiến bộ nhân trí và văn minh nhân tri với tinh thần tôn trọng lẫn nhau để cùng hợp tác, mà tạo sức bật cho dân tộc, tạo dàn phóng cho các thế hệ mai hậu.
Sạch trong du lịch để sạch thực phẩm, sạch dịch vụ, sạch nhân cách khi phục vụ khách du lịch quốc nội và quốc tế. Sạch trong não bộ biết “ăn ở có hậu” với đồng loại và nhân loại để có não trạng sống mà “biết người biết ta”, không buôn gian bán lận. Sạch trong ăn hiền ở lành với đồng bào cũng như với đồng loại, với thân bằng quyến thuộc cũng như với tha nhân người xa kẻ lạ.
Học thật kỹ kinh nghiệm lao động với lương tâm, sản xuất với lương tri, quan hệ trong thương mại cũng như trong đối ngoại, trong kinh tế cũng như trong xuất nhập khẩu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, buôn thật, bán thật. Biết tránh xa buôn giả, bán giả của Tàu nạn, biết xua đi mọi hiểm họa môi trường của Tàu họa, biết gạt đi mọi hậu nạn của công nghiệp bẩn, như nhiệt điện than của Tàu hoạn, và đuổi cho bằng được Tàu tặc ngày đêm cướp đất, biển, đảo của Việt tộc. Quê hương phải sạch bóng Tàu tà, quét sách tà quyền hèn với giặc, dọn sạch bạo quyền ác với dân. Cụ thể là trạng từ sạch không hề là một ngữ vựng suông, mà là:
– Một thượng tầng kiến trúc sạch từ định chế tới cơ chế, có “sân chơi”, “trò chơi”, “luật chơi” rành mạch của tam quyền phân lập, có lập pháp biết giữ sạch, có hành pháp biết làm sạch, có tư pháp biết xử sạch.
– Một hạ tầng kiến trúc sạch, từ kinh tế tới lao động, có sinh hoạt xã hội biết tự giữ sạch, có quan hệ xã hội biết tự dọn sạch, có đời sống xã hội biết tự lau sạch. Từ bạo quyền công an trị tới tà quyền tham nhũng trị bị quét sạch, từ ma quyền tham tiền trị tới quỷ quyền ngu dân trị bị xua sạch.
Sạch là thuật ngữ làm nên tổng tri để tạo điều kiện cho xuất hiện:
– Một nhân sinh quan sạch có chỗ dựa của nhân phẩm, nơi con người đi nhận ra nhân bản sạch làm nên nhân văn đẹp, nơi nhân lý sạch làm nên nhân tính tốt, nơi nhân tâm sạch làm nên nhân từ cao.
-Một thế giới quan sạch có chỗ dựa của nhân quyền nơi con người đi nhận ra nhân trí sạch làm nên nhân tri đẹp, nơi nhân nghĩa sạch làm nên nhân đạo lành, nơi nhân lộ sạch làm nên nhân vị cao.
-Một vũ trụ quan sạch có chỗ dựa của nhân sinh quan biết yêu thiên nhiên, quý môi trường, trọng môi sinh, nơi con người đi nhận ra một thế giới quan sạch tha nhân có đường đi nẻo về trên hành tinh này, nơi đồng bào và đồng loại chỗ đứng, ghế ngồi cùng quyền tự do đi lại trong sự tôn trọng lẫn nhau bằng cách giữ sạch những nơi mình sống và những nơi người khác đang sống.
Nhân đạo thật
Khi nhìn lại thế kỷ XX vừa qua, các sử gia quốc tế đã đưa ra hai nhận định qua hai giai đoạn lịch sử khác nhau, trái nghịch nhau:
– Giai đoạn đầu thế kỷ, trước 1910, với vô số phát minh khoa học và kỹ thuật, trên các châu lục tiên tiến, được thừa hưởng hơn nửa thế kỷ không chiến tranh, không thế chiến. Nơi mà năng suất kinh tế, hiệu suất canh nông, cùng các bước dài của khoa học kỹ thuật, tất cả trong bối cảnh hợp tác giữa các quốc gia, với tinh thần hội nhập để cùng tham gia vào tiến bộ chung của nhân loại. Thủa ấy, nhân loại không biết các tên sát nhân kiểu Hitler, Stalin, Mao, Musolini là ai cả, một nhân loại sống trong thái hòa.
– Giai đoạn sau đầu thế kỷ, sau 1910, với chủ nghĩa quốc gia quá khích, với chủ thuyết bản sắc cực đoan, nhân loại đã phải nhận hai cuộc thế chiến, với số tử vong quá mức tưởng tượng, cùng sự tàn sát trong chương trình diệt chủng của Hitler truy diệt người Do Thái. Cùng lúc với chủ nghĩa quốc gia quá khích, với chủ thuyết bản sắc cực đoan, là sự xuất hiện của ý thức hệ cuồng bạo kiểu cộng sản chủ nghĩa, với thanh trừng, trại cải tạo, trại học tập…. Mà chỉ hai ý thức hệ này thôi, một là Đức quốc xã, hai là cộng sản chủ nghĩa, số nạn nhân tử vong đã vượt ngoài sức tưởng tượng.
Nhưng nhân đạo không chỉ là con đường đúng dẫn tới một chân trời đẹp cho tương lai, mà ngay bây giờ nhân đạo là sự xuất hiện của nhân lý hay có nội công làm nên nhân tính lành trong một nhân tri tốt. Cụ thể trong nhân đạo, nhân loại thấy được sự đoàn kết trong đồng lòng giữa đồng loại, và cụ thể hơn nữa trong hiện cảnh của Việt Nam, nhân đạo là nơi mà đồng bào thấy được sự tương trợ thật của một dân tộc. Tại đây với trí khôn của nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự tiến hóa không ngừng nghĩ của các khám phá khoa học, thì khi bạo quyền độc đảng ngu dân trị ra đi, các lãnh đạo mới của Việt tộc tới từ lý trí của đa nguyên, trí tuệ của dân chủ và tuệ giác của nhân quyền phải nhận ra ít nhất là năm kim chỉ nam sau đây để không bị lầm đường lạc lối trước nhân lộ văn minh của nhân loại:
– Đa, phải nằm lòng và thuộc lòng chữ đa như định nghĩa của thông minh, vì kẻ thực sự thông minh là kẻ hiểu chữ đa, để được đi trong đa chiều, để hiểu trong đa dạng. Tại dây, đa của các chủ thể luôn có tự do học hỏi trong đa kiến thức, để có đa tri thức, để thấy đa phương trong đa hướng, khi phải chọn chỉ một chân trời, trong đa tương lai. Một kẻ tự kiêu, tự đại trong độc đảng để độc tài, độc tôn để độc trị, độc quyền trong độc ác, gây bao độc hại từ đất nước tới dân tộc, kẻ đó không khôn ngoan, không thông minh, mà ngược lại là vô minh trong vô tri, vì vô giác trong vô cảm trước chữ đa. Ngay trong chữ đa, ta thấy đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng, đa lực làm nên đa đảng, thì ta phải thấy luôn đa phương pháp, đa tiếp cận, đa kỹ thuật làm nên đa ứng dụng trước các thử thách của nhân sinh, đa hội nhập trước các thăng trầm của nhân loại.
– Nội, có nội công làm nên nội lực, một sức mạnh bên trong tạo nên bản lĩnh có tự tin nên có tự chủ, làm nên tầm vóc biết đấu tranh vì tự do để bảo vệ cho bằng được công bằng và bác ái. Nội không phải của một cá thể ích kỷ để vụ lợi, cá nhân vị kỷ để trục lợi, mà là nội chất của một chủ thể có bổn phận với đồng bào, nhận trách nhiệm với đất nước. Mà không quên nhân loại, nơi mà tha nhân được đón, tiếp, nhận, giúp với tình đồng loại, trong sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau, đây là sự thông minh đi trên lưng cái cá nhân chủ nghĩa hạn hẹp, đi trên vai cái ích kỷ chủ nghĩa thấp hèn, đi trên đầu cái vụ lợi thui chột chỉ biết khai thác, bóc lột tha nhân.
– Người, là người ta trong cái người của mẫu số chung là nhân, nhân của nhân lý trong nhân tính, nhân tình trong nhân tâm, nhân ái trong nhân từ. Biết người biết ta trong nhân tri, nhưng cũng biết đi thêm bước nữa là thương người như thể thương thân của nhân trí, biết ăn đời ở kiếp với nhân đạo, biết trao thân gởi phận với nhân phẩm trong nhân loại có chung để chia, có chia vì biết chung. Hiểu được tha nhân, nên thương được tha nhân, biết suy bụng ta ra bụng người thì cũng phải biết hiểu ngược lại để khôn ra là suy bụng người để hiểu người, thông cảm với người, để yêu thương người hơn. Vì không sống với người thì sống với ai, nên từ chối truy, diệt, hủy, giết người như để bảo vệ nhân phẩm của chính mình.
– Chung, không phải là tặng trong mù quáng, trao trong vô điều kiện, biếu trong phản xạ một chiều, mà chung trong chia, biết chia tiếp tục được sống trong chung. Để mọi bên đều sống, được hưởng, lao động trong hợp tác, sản xuất trong tình thần tập thể có đồng đội, cùng đồng lòng vì tương lai. Cái chung tạo nên đội, nên đoàn, nên tổng lực của một nhân loại biết hợp tác để hợp sức, không cạnh tranh trong thô thiển, không tranh giành trong hoạn lộ, không so sánh lực lượng để đe nẹt nhau, mà biết cùng nhau nhìn về một chân trời, để cùng nhận ra mọi ánh sáng hay, đẹp, tốt, lành cho nhân quyền, mọi hào quang cao, sâu, xa, rộng cho nhân phẩm.
– Chia, mà không ngừng ở chia ăn chia uống, hoặc chia lời chia lợi, mà chia theo chiều cao của tri thức, mà cụ thể là chia kiến thức để cùng nhau có chung một ý thức, có cùng nhau một sức mạnh của nhận thức trước các thăng trầm của nhân sinh. Chia tri thức rồi chia kiến thức, chia ý thức rồi chia nhận thức, để cùng nhau chia giáo dục, chia văn minh. Trẻ học già, nhưng già cũng phải học trẻ, nhất là về các kiến thức mới về tin tức, về truyền thông, về vi tính, về các khoa học và kỹ thuật mới ra đời. Đây là quá trình cùng giáo dục nhau, với tên gọi là giáo dục song đôi, có hai chiều, có xuyên thế hệ, để không ai bỏ ai, không có chuyện thế hệ này loại ra thế hệ kia.
– Đạo của đạo lý trong nhân bản hay, nhân vị đẹp, nhân tâm tốt, nhân đạo lành, chớ không phải đạo của đạo giáo, mà đạo ở đây là đạo đức, của nhân đức làm nên nhân từ để chế tác ra nhân tâm. Khi nhân sinh biết ăn hiền ở lành, khi nhân gian biết ăn ở có hậu, thì đạo lý sẽ là chủ trì trong chủ đạo mà làm nên luân lý, nơi mà cá nhân biết mình còn là công dân có bổn phận với đồng bào, đồng loại, có trách nhiệm với đất nước, với trái đất từ môi trường tới môi sinh. Từ đây, công dân sẽ trở thành chủ thể làm việc với sáng chế, hợp tác với sáng kiến và hành động với sáng tạo để thăng hoa nhân sinh, nhân loại.
Bi kịch của các lãnh đạo ĐCSVN đã làm nên thảm kịch cho Việt tộc từ hơn nửa thế kỷ qua là họ vô minh trong vô tri về 5 chữ: đa, người, chung, chia, đạo, và họ đã vô học trong vô hậu khi họ biến con dân nước Việt thành những loại người vô giác trong vô cảm trước nỗi khổ niềm đau của đồng bào, đồng loại.
Não Luận: Nhân (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).