CHỐNG CÁI VÔ HỌC CỦA TIỀN TỆ-QUAN HỆ-HẬU DUỆ
Khi đặt vấn đề giáo dục truyền thống lạc lõng hay hài hòa với giáo dục truyền thông, thì tại đây chính những kẻ lãnh đạo chính trị phải rõ ràng trong tri thức, rành mạch trong phương pháp về định hướng giáo dục, để đặt ra những ưu tiên cho kẻ lãnh đạo giáo dục (từ cấp bộ tới cấp trường) phải phối hợp được cả hai: giáo dục truyền thống và giáo dục truyền thông trong quy trình học-biết-trao-truyền. Từ đó, có các quốc sách đầu tư vừa có tri thức và vừa có phương pháp vào hạ tầng tin học, tại đây khoa học truyền thông sẽ trở thành cốt, xương, gân, bắp giúp cho thượng tầng giáo khoa luôn có giáo trình mở, giáo án rộng trong một nền giáo dục từ chối đóng kín để phục vụ cho ý đồ của một ý thức hệ độc tài, mà chóng chày học sinh sẽ nhận ra là nó bất tài trong sự chuyển hóa thường xuyên của giáo dục, sự vận hành thường trực của giáo khoa. Câu chuyện giáo dục cao, giáo khoa sâu, giáo trình mở, giáo án rộng không hề lý thuyết hoặc trừu tượng, vì nó đã hiện diện tại các quốc gia Bắc Âu: Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, tại các quốc gia này họ tránh tuyệt đối thảm kịch giáo dục của Việt Nam hiện nay. Cụ thể là họ cấm toàn diện những kẻ vô tri lãnh đạo người có trí tri, mà hậu quả là kẻ có học phải làm nạn nhân của kẻ vô học, nơi mà tiền tệ-quan hệ-hậu duệ đang đè đầu cỡi cổ trí tuệ.
LÝ TRÍ TỔ TIÊN, NHÂN VỊ DÂN TỘC
Khi thế hệ trước giáo dưỡng thế hệ sau qua một hệ thống giáo dục trong đó kiến thức có chỗ đứng trong lý trí bằng phương pháp khách quan của khoa học, thì kiến thức đó không bao giờ lẻ loi trong độc thoại, cô đơn trên minh lộ của giáo dục. Kiến thức tới từ giáo khoa có đạo lý hay, đẹp, tốt, lành gầy dựng lên luân lý của bổn phận và trách nhiệm với dân tộc và đất nước, trong đó đạo đức đã làm nên công trạng và thành quả của tổ tiên chính là lý trí của cha ông, giờ đã thành bài học đúng cho con cháu. Chính học đường qua giáo dục sẽ giúp thế hệ con cháu đưa được kiến thức qua kinh nghiệm của tổ tiên vào đời sống xã hội, làm nên quan hệ xã hội lành, làm ra sinh hoạt xã hội tốt. Chớ không phải như hiện nay, bạo lực đã xuất hiện ngay trong học đường với thầy cô bạo hành học sinh, để trường học phải nhận luật nhân quả một cách thô bạo nhất là học sinh dùng bạo động để hành hung thầy cô. Một lực lượng lãnh đạo chính trị và giáo dục của một đất nước, của một dân tộc mà không ngăn được hệ bạo (bạo lực, bạo hành, bạo động), thì lực lượng này không có tương lai, tuổi thọ nó rất yểu, chắc chắn là nó sẽ: sống nay chết mai trong bạo phận của điếm giáo!
TRÍ TUỆ LÀM NÊN BỞI KIẾN THỨC CỦA HỌC THUẬT
Một nền giáo dục chính thống dứt khoát chối từ, loại bỏ, xua đẩy hệ bạo (bạo lực, bạo hành, bạo động), vì một nền giáo dục chính thống là một nền giáo dục chính tri có minh lực để gạt đi, đẩy ra, loại trừ cái tục: nói năng thô tục sinh ra đối xử tục tĩu, cái tục không hề có chỗ đứng, ghế ngồi trong giáo dục, và tổ tiên Việt rất rõ ràng trên chuyện này: đố tục giảng thanh. Phải luôn lấy thanh để trị tục; tại đây trí tuệ làm nên bởi kiến thức của học thuật luôn biết chọn thanh để loại tục, và khử luôn hệ bạo (chính là tục của tục), vì cả hai cái bạo và cái tục nó thô bỉ hóa nhân cách, nó tồi tệ hóa nhân vị, nó âm binh hóa nhân phẩm. Tục và bạo không hề có một tấc đất trong môi trường giáo dục, vậy mà tại hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay, nó tràn lan từ mẫu giáo tới tiểu học, từ trung học tới đại học, có nhiều trường, lớp với nhiều cấp, bậc khác nhau: sâu bọ đã làm người, với bọn lãnh đạo giáo dục đang tha hóa trí tuệ và đạo đức của các con em học sinh chưa trưởng hành. Chúng không những là sâu bọ, mà còn là ký sinh trùng hút máu phụ huynh qua mua điểm bán trường, truy diệt nguyên khí của học sinh qua chuyện mua bằng bán cấp, để man trá trong chuyện mua chức bán quyền của một chế độ độc đảng trong mê lộ của độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong giáo dục.
CỘI NGUỒN HỆ LỰC (TRÍ LỰC, TÂM LỰC, THỂ LỰC)
Khi truyền thống lý trí tổ tiên tạo ra nhân vị của dân tộc, tức là nó tham dự rất tích cực và hiệu quả để chế tác nguyên khí quốc gia qua các thế hệ con cháu; sự trao truyền của cha ông luôn là sự tiếp nối không ngừng nghỉ sinh lực của một giống nòi, làm nên sung lực của một quốc gia, trong đó dân tộc mang hùng lực lịch sử của độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, đã là chỗ dựa cho văn hiến trong quá khứ và sẽ là chỗ dựa cho văn minh trong tương lai. Giáo dục là không gian tái tạo để tái sản xuất hệ lực (sinh lực, sung lực, hùng lực) của một quốc gia, của một dân tộc bằng trí tuệ của giáo khoa, giáo trình, giáo án để phát huy toàn diện cho kẻ được học trong cội nguồn hệ lực (trí lực, tâm lực, thể lực), với trí sáng, tâm vững, thể mạnh, làm nên khí phách của một gióng nòi. Mà Nguyễn Du đã mô thức hóa được: sống là thể phách, còn là tinh anh, ở đây người ta thấy được thể phách qua truyền thống lý trí tổ tiên, và tinh anh trong nhân cách, trong phong cách, trong tư cách của các thế hệ con cháu.
TẦM SƯ HỌC ĐẠO VÌ BIẾT TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
Đậm phúc hay nhạt phúc còn tùy thuộc vào trò nữa, đó là chiều dài và chiều rộng trong sự thông minh của trò đã hiểu ra vai vóc và tầm cỡ của chuyện «tầm sư học đạo», vì trên thượng nguồn của giáo dục đã biết «tôn sư trọng đạo». Đây là câu chuyện đạo lý của tri thức, biết lấy kiến thức hay, đẹp, tốt, lành để xây dựng lên ý thức học thành tài để học thành người, dựng lên không gian của nhận thức, phải có văn hay chữ tốt, mà chữ hay có gốc, rễ, cội, nguồn của nó: muốn hay thì phải tìm người xưa. Khi không gian của thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) đã định hình, thì con đường học sẽ mở: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Khi quy trình tiên học lễ hậu học văn đã được khẳng định, thì trò sẽ vào một quy trình văn ôn võ luyện, trong học hằng ngày có luyện thường xuyên, ngữ pháp Việt rành mạch, vì trong tập luyện có tôi luyện. Trong quá trình ngày ngày tiếp cận với thầy, có bài học: muốn hay chữ phải tìm người xưa; và muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học giờ đã thành một, một của đường dài, một của nhìn xa trông rộng qua nghe lời thầy, nghe để học đúng và hiểu trúng, chớ không phải nghe một cách vô điều kiện.
KHÔNG GIAN CỦA HỌC LÀ THANH THOÁT TRONG THANH TAO
Nghe lời thầy từ tổng quan tới chi tiết, vì thầy sẽ kỹ lưỡng trong học ăn học nói học gói học mở, vì văn hay chữ tốt của thầy giờ đã là của trò, mà văn và chữ nầy đã đứng hẳn về phía thanh để chống tục. Vì không gian của học là thanh thoát trong thanh tao, nó ngược chiều với cách hành xử thô tục, nó ngược dòng với cách đối xử tục tĩu, kể cả khi phải đối diện với cái tục tằn, thì liên minh của thanh thoát và thanh tao sẽ chế tác ra thanh nhã để luôn có hành tác: đố tục giảng thanh. Dù gặp một chữ, một câu, một thái độ, một hành động thấp tục tới đâu, thì trò sẽ làm theo thầy là trả lời bằng thanh để giảng thanh cho kẻ tục biết mà tự sửa rồi tự bỏ đi cái tục, để tự kiểm rồi tự nâng mình theo cái cao của cái thanh. Tự thủa xa xôi nào nơi mà chữ nghĩa cũng quý hiếm như tiền bạc, có lời khuyên như con dao hai lưỡi: «Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy», là học chữ để thành người, nhưng nếu học chữ để làm ra tiền, lời khuyên theo loại thực dụng chủ nghĩa này, đáng ngờ vì nó là con dao hai lưỡi, có thể vừa làm ra kết quả, vừa sinh ra hậu quả. Cái thời xưa đó có chữ để làm tiền, vì có chữ là được xem như có học, mà có học thì «không sao chết đói được», dạy học thì ra tiền, thời đó thực sự đã qua chưa? Giờ đây hình như chữ nghĩa không còn là của riêng của kẻ dạy học, mà dạy trong phản xạ «giấu nghề», thì trò sẽ không học được trọn vẹn, đầy đủ.
TIẾNG NÓI CỦA THẦY LÀ LỜI TÂM HUYẾT
Lòng thành thật của thầy là sự thật của thầy trong quan hệ giáo lý làm nên giáo dục đặc sắc, dựng lên giáo khoa đặc thù, xây lên giáo trình đặc điểm, dựng nên giáo án đặc biệt mang cá tính, nội công, bản lĩnh, tầm vóc của thầy. Đây không phải là chuyện phô trương hiểu biết của thầy về kiến thức, mà đây là một tổng lực trong đó cá tính, nội công, bản lĩnh, tầm vóc của thầy đã thắp lên được ngọn lửa ngầm ngay trong trí lực và tâm lực của trò, mà những ngày tiếp nối sau này trong cuộc đời của trò, thì trò phải tự biết giữ lấy ngọn lửa ngầm cho trọn kiếp. Đây là quan hệ giữa người và người, mà giáo dục truyền thông qua internet khó mà thực hiện được, vì tiếng nói của thầy là lời tâm huyết trong một bối cảnh nhất định của không gian trao truyền song hành cùng với thời gian giảng dạy, mang đầy đủ nhân tính trong nhân tri, nhân đạo trong nhân trí, nhân lý trong nhân thế…. Thầy đang đứng đó, thầy đang giảng đây, và trò nghe với chính tâm huyết của mình, mỗi lần trò rung động tới từ xúc động qua lời của thầy, tức là trò đang nhen nhúm mà tạo lực cho ngọn lửa ngầm mà trò mong được rực sáng mãi trong tâm lực, trí lực. Trong truyền thống xuất gia của Phật giáo có lễ truyền đăng (truyền đèn như truyền ánh sáng) giữa thầy và trò, như truyền cho nhau không những các tri thức cần có để làm người, mà còn truyền cho nhau tâm nguyện, có trong ý nguyện giờ đã thành ý lực là gốc của tâm lực, trí lực, làm nên vai vóc của trò, biết hành đạo vì biết hành thiện.
TÂM HUYẾT CỦA MỘT NGƯỜI THẦY
Diễn biến tâm lý giáo dục của trò mà chỉ có trò biết, từ nhen nhúm ngọn lửa tới lúc biến ngọn lửa bùng lên, có khi chỉ là khoảng khắc, có khi được nuôi dưỡng bao năm trường, đây có thể là một ngọn lửa lớn, cũng có thể là một ngọn lửa ngầm, tồn tại như một ẩn số của đời người, mà thi sĩ Tô Thùy Yên được vào phương trình ba sinh (quá khứ, hiện tại, vị lai): «Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh». Khi người xưa tin rằng lời thầy giảng, dạy, khuyên, răn có khi là khuôn vàng, thước ngọc cho cả một kiếp người. Hãy tổng kết để giải luận về cuộc đời của kẻ đi học gặp được thầy, và những kẻ khác đi học hoài, học mãi, học liên tục mà không gặp được thầy. Nếu một người thầy đúng nghĩa là thầy, thì người thầy sẽ thực hiện học trình đố tục giảng thanh, với hiệu quả của: không thầy đố mày làm nên, mà giáo dục truyền thông hiện đại qua internet khó mà làm hơn thầy, chỉ vì không có đầy đủ tâm huyết của một người thầy. Chính tâm huyết của thầy (là của riêng thầy) nên thầy rất khác: kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư, họ làm việc với bổn phận và trách nhiệm, nhưng họ không có tâm huyết của thầy. Các kỹ thuật viên, giáo viên, giảng viên, giáo sư thường có tài năng của trí lực (nên mới được hành nghề trong hệ thống giáo dục); nhưng họ không có sung lực làm nên hùng lực của tâm lực, đây là một trong những định nghĩa thế nào là tâm huyết trong quá trình trao và truyền của thầy tới trò. Cụ Tiên Điền Nguyễn Du không lầm: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!
HỌC LỰC LÀM NÊN THỰC CHẤT CỦA HỌC HÀNH
Tâm huyết của thầy dẫn trò tới một không gian khác của quá trình học tập khi có thầy rồi thì trò không học mò nữa, mà là học hỏi, tức là vừa học, vừa hỏi, hỏi cho ra chuyện, hỏi để được học tới nơi tới chốn, hỏi để thầy và trò cùng ngộ ra là: so ra mới biết ngắn dài; để cả hai (thầy và trò), cùng thăng tiến rồi thăng hoa theo học lực. Khi thầy không trả lời đầy đủ, trọn vẹn câu hỏi của trò, thì thầy phải tìm hiểu thêm, nghiên cứu thêm, tức là bản thân thầy cũng phải học hỏi thêm, để câu hỏi của trò có câu trả lời, có lối ra, có chân trời, tức là «có hậu», để cả hai, thầy và trò, tiếp tục song hành bền bỉ trên con đường học vấn. Học lực làm nên thực chất của học hành, nó không bị một bạo quyền lãnh đạo nào có thể bày vẻ ma trận của ngu dân qua tuyên truyền để truy diệt nó, như ta đang thấy trong thảm trạng giáo dục Việt Nam hiện nay, lấy độc đảng để độc tài nhưng bất tài trên mọi lãnh vực quản lý đất nước, nhất là trong giáo dục mà Việt tộc đang phải nhận lãnh một bi nạn là mái trường Việt đang ở đáy vực thẳm của phản giáo dục. Lấy mua điểm bán trường để mua bằng bán cấp, qua học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để mua chức bán quyền, mà học vị là tờ giấy trắng (trắng tri thức vì vắng kiến thức) và học hàm là tờ giấy đen (đen vì bẩn bùn gian lận, màu đen của âm binh man trá).
Giải Luận: Trí Thức (P14)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).