LIÊN MINH SỬ ĐỊNH-ĐỨC ĐỊNH-LUẬT ĐỊNH
Hệ lụy và hệ luận giúp người trí thức nhận ra một lý thuyết luận của liên minh: sử luận-triết luận-xã luận, để nhận ra ít nhất ba trở ngại của cuộc đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền: sử tính, mang sự thật lịch sử đã bị thay trắng đổi đen bởi ĐCSVN; đức tính, mang giáo lý của tổ tiên Việt đã bị vùi dập bởi ĐCSVN; luật tính, mang công lý của luật pháp đã bị bóp nghẹt bởi ĐCSVN. Khi cả ba: sử tính, đức tính, luật tính bị loại ra khỏi không gian quyền lực của độc tài, thì khoa học xã hội và nhân văn phải nhận ra các chủ thể mới xuất hiện trong xã hội dân sự, có chủ đoán để chủ quyết, có chủ động để chủ luận về sử định, hiểu lịch sử và quyết định làm tốt hơn lịch sử; đức định, hiểu đạo lý và quyết định làm tốt hơn giáo lý; luật định hiểu công lý và quyết định làm tốt hơn công luật. Liên minh sử định-đức định-luật định, làm nên luân lý của dân chủ, thì các thuật ngữ: tà quyền, ma quyền, quỷ quyền không phải là những ngữ văn để chỉ trích, chê bai, thóa mạ, phỉ báng, mà chúng chính là những mô hình giải thích quyền lực của hệ bất (bất tín, bất trung, bất tài, bất nhân) diệt đạo lý, triệt pháp lý; để từ đó chúng ta lập được mô thức giải luận để phân tích tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, đây là các quyền lực chống hệ công (công lý, công luật, công pháp, công tâm). Nếu không giải luận rồi diễn luận tới nơi tới chốn quá trình từ mô hình giải thích tới mô thức giải luận, thì ta sẽ không thấy để thấu các thảm họa đã, đang, sẽ giăng bẫy Việt tộc trên nhân lộ của nhân phẩm.
SỰ TÔN TRỌNG CỦA ĐA LÝ
Nhân quyền là quá trình chỉnh lý đang đi tìm toàn lý, đây là khó khăn cụ thể mà cũng là thử thách vinh quang của thực thể nhân quyền. Vì toàn lý phải bắt đầu bằng sự tôn trọng của đa lý, mà trong đa lý có đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu làm nên chân dung diện mạo của đa nguyên. Tại đây, Liên Hiệp Quốc định vị để đề nghị tôn trọng sự khác biệt, nhưng cẩn trọng trước sự phân biệt, tạo ra sự tách biệt. Vượt qua sự phân biệt để đi tìm những mẫu số chung, tạo điều kiện cho sự chung sống bằng sự tôn trọng lẫn nhau. Vượt thắng sự tách biệt để tìm ra nền tảng chung, tạo điều kiện cho sự chung sống bằng khả năng nhận ra những sự tương đương được mọi bên công nhận.
NHÂN QUYỀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT Ý THỨC HỆ
Khi phân tích các lập luận về nhân quyền không những qua lập luận của các tư tưởng gia, các triết gia, mà còn phải nhận ra các công trình nghiên cứu của chính trị học, nhân học, xã hội học đương đại, tại đây xuất hiện hai kết luận mới nhân quyền sẽ tự diệt khi nó tự biến thành một loại ý thức hệ độc đoán áp đặt lên xã hội, lên nhân loại, mà mọi người đã thấy sự thảm bại của ý thức hệ cộng sản, mà ngược lại nhân quyền phải luôn nắm trong quỹ đạo danh chính ngôn thuận của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) vừa để bảo vệ tính chỉnh lý, vừa để bảo đảm tính phổ quát của nó. Nhân quyền sẽ tự hủy khi nó tự tương đối hóa nó, ép buộc nhân sinh phải nhắm mắt trước hủ tục, trá hình bằng tên gọi là văn hóa, kiểu đa thê, đa thiếp để không tôn trọng nam nữ bình quyền. Tồi tệ hơn là loại tự tuyên ngôn: «ĐSCVN là lực lượng ưu tú nhất và độc nhất lãnh đạo dân tộc, xã hội…», nơi mà độc đảng tự cho phép toàn trị mà không qua hệ đa (đa lý, đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu), để tránh né luôn hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận)
KHÔNG TỰ TƯƠNG ĐỐI HÓA, KHÔNG TỰ THIÊNG LIÊNG HÓA
Không phải là ý thức hệ, cũng không tự tương đối hóa, tiến trình của nhân quyền cũng không được tự thiêng liêng hóa mình như đã thấy trong các sinh hoạt của tôn giáo; trong đó thượng đế sáng tạo ra muôn loài và muôn loại phải có lòng tin tuyệt đối vào thượng đế. Không được tự dung hòa hóa mình trước các quyền lực kình chống nhau, vì có quyền lợi mâu thuẫn nhau, mà hậu quả là có kẻ thắng người bại, mà tất cả đều không nhận ra đạo lý nhân quyền là tôn trọng lẫn nhau để chung sống. Thuật ngữ nhân luận trở nên linh động khi ta nhận ra hệ luận của quyền làm người, được làm người mà không là nạn nhân cũng không là thủ phạm của bất cứ bất công nào, của bất cứ bất nhân thất đức nào,
NHÂN QUYỀN CÓ NỘI CHẤT CỦA NHÂN PHẨM
Nhân quyền có nội chất của nhân phẩm, khi nhân sinh biết gỡ ra ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… giá trị của con người là vô giá nên nhân quyền hành tác trên cao, đi xa, nới rộng, đào sâu hơn các phạm trù bình thường nếu không nói là tầm thường của ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu…. Nhân quyền là sức hút của hoài bão vì nhân lý, nhân tri, nhân trí, của hoài vọng vì nhân bản, nhân văn, nhân vị, tạo ra được sự thuyết phục từ đó tạo được sự đồng cảm, đồng lòng để các giá trị của nhân phẩm. Vẫn chưa trọn về diễn luận, nhân quyền còn cho xuất hiện hai phương án khác nhau từ nội dung tới thể hiện, vì nhân quyền tích cực của hội nhập để có một lý tưởng chung là bảo vệ nhân phẩm. Nhân quyền được thực hiện trong đòi hỏi công bằng, trong đấu tranh vì tự do, một nhân quyền có chân trời của công lý, khi con người biết trả lời là: có! Nhân quyền tiêu cực là một nhân quyền khi nhân sinh đứng trước bất công, thì con người biết trả lời ngược lại là: không! Vì bất công không chấp nhận được, vì nó bất nhân thất đức. Nhân quyền tiêu cực nơi mà ngữ pháp tiêu cực của phản ứng trả lời: không chính là một sung lực rất tích cực, vì không chấp nhận bất công, nên sẽ bất tuân trước bạo quyền, cụ thể là sẽ bất chấp tà quyền.
HIỂU ĐƯỢC THÌ GIẢI THÍCH ĐƯỢC
Khi chúng ta đủ tâm và đủ tầm để vận dụng quá trình nhận thức xã hội vào các công trình xây dựng xã hội vì nhân quyền, thì ta phải nhận định rõ là nhân quyền có mặt và có tiến bộ về nhận thức khi khoa học, kỹ thuật, học thuật, tư tưởng có mặt trong tiến bộ trong xã hội, trong nhân sinh. Nhân quyền có mặt như lý tưởng về văn minh vừa khả thi, vừa cao rộng, mang tầm vóc của một tổng thể của các lý tưởng chính trị, khoa học, xã hội, văn hóa…. Nhân quyền hiện thân trong tư duy của con người không bằng ý thức hệ trừu tượng, cũng không bằng một ý đồ chính trị viễn vông; nhân quyền là nhận thức, cụ thể là hiểu được thì giải thích được, giải thích được thì xem như đã hiểu rồi, nơi mà hiểu biết và giải thích không phải là hai động tác khác nhau, mà chỉ là một, một không gian và không có biên giới nên không cần trung gian để nối nhịp cầu giữa hiểu biết và giải thích. Hiểu được ngay thì giải thích được ngay, vì nhân quyền cư trú ngay trong quyền làm người, tức là quyền được sống yên mà không là nạn nhân hay thủ phạm phản nhân quyền. Và quyền này song hành cùng quyền mưu cầu hạnh phúc mà không một bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền nào có quyền tước đoạt.
QUYỀN ĐƯỢC LÀM NGƯỜI TRONG LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI
Sự khởi lực của tư duy dân chủ song hành cùng tư duy đa nguyên; có động lực của quá trình nhận thức của xã hội, song đôi cùng công trình xây dựng xã hội; có trí lực tiến bộ về nhận thức sánh bước cùng lý tưởng về văn minh. Như vậy, nhân quyền là một thực lực thường xuyên có mặt trong xã hội dân sự, nên khi ta đi tìm định đề để nhận ra định luận của nhân quyền. Nơi mà nhân quyền là quyền lợi lẫn quyền lực muốn làm người đúng nghĩa nhất với nhân phẩm. Nhân quyền còn là công bằng lẫn công lý muốn có công luật đúng nghĩa nhất với nhân vị. Quyền được làm người song lứa với luật bảo vệ người chính là chủ lực của nhân định. Khi nhận ra được hai mệnh đề trong cùng một mệnh để chung tên là nhân quyền, thì nhân quyền vừa là cơ hội đối thoại giữa các dân tộc khác nhau, giữa các văn hóa và văn minh khác nhau có thể đối luận được với nhau qua quyền được làm người, luật bảo vệ người. Nhân quyền còn là cơ hội tiến bộ của mọi dân tộc khác nhau, của mọi văn hóa và văn minh dù khác nhau nhưng biết lấy nhân vị, nhân bản, nhân văn làm nội lực cho nhân quyền. Nhân quyền mang hình ảnh của con người đi về phía cao của ánh sáng, đủ sức bước tới, bước lên, có tay trái cầm đèn soi đường, có tay phải cầm cán cân của công lý.
PHÁP LÝ CÓ TUỆ GIÁC
Pháp lý có tuệ giác, ngữ pháp của một phạm trù giải luận nơi mà lý luận của luật pháp nhập nội vào không gian của trí tuệ có lý trí được hướng dẫn bởi lý-lập-nên-luận, có tuệ giác đưa đường dẫn lối bởi tuệ-làm-ra-giác. Đây là một mô thức diễn luận của tri thức Pháp lý tuệ giác, ngữ pháp của một phạm trù giải luận nơi mà lý luận của luật pháp nhập nội vào không gian của trí tuệ có lý trí được hướng dẫn bởi lý-lập-nên-luận, có tuệ giác đưa đường dẫn lối bởi tuệ-làm-ra-giác. Đây là một mô thức diễn luận của tri thức đã trở thành sự cảnh giác, được trợ lực bởi đạo lý tỉnh táo của nhân phẩm song hành cùng luân lý sáng suốt của nhân vị, cả hai làm nên đạo đức của nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa. Tại sao phải làm rõ phạm trù giải luận pháp lý tuệ giác? Lý do chính đáng tới từ thực tế của bất công, khi tòa án không dụng công lý để bảo vệ công bằng, để nạn nhân của bất công phải lãnh chịu một bất công không chấp nhận được, đó là bất công tới từ tòa án là công cụ của bạo quyền, của tà quyền, của ma quyền. Vào đường cùng khi toà án chỉ là công cụ độc tài và độc quyền của độc đảng để nạn nhân của bất công phải gào lên: tòa án lương tâm sẽ xử chúng!
TUỆ GIÁC CÓ NỘI LỰC CỦA LÝ TRÍ, CỦA TRÍ TUỆ BIẾT BẢO HÀNH NHÂN TÂM, NHÂN NGHĨA
Nếu phạm trù tòa án lương tâm, chỉ có lương tâm làm quan tòa cho mỗi người, thì những kẻ lãnh đạo bạo quyền, hoạt náo tà quyền, điều hành ma quyền, chúng không hề có lương tâm, vì không biết lương tri là gì, chỉ vì không có lương thiện làm nên bởi nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nên chúng sẽ không biết gì về tòa án lương tâm. Trên lý luận về luân lý, thì đây là một loại bất công vừa về đạo lý vừa về pháp lý. Vì vậy, tòa án lương tâm phải được trợ lực bằng tuệ giác có nội lực của lý trí biết bảo vệ nhân tri, nhân trí; có trí tuệ biết bảo trì nhân tính, nhân lý; có tuệ giác biết bảo hành nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa. Tất cả hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa) này là định hướng, làm nên đường đi nẻo về cho nhân thế và nhân loại biết sống có nhân phẩm. Sung lực của pháp lý trí tuệ là dùng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để bảo hộ cho hệ lương (lương tâm, lương tri, lương thiện) bằng hùng lực của hệ liêm (liêm chính, liêm khiết, liêm sỉ), cụ thể là biết khách quan hóa từ dữ kiện tới chứng từ, từ chứng tích tới chứng nhân, dùng trực luận để trao luận.
NHÂN QUYỀN: CHÂN TRỜI CHUNG, CHÂN TRỜI MỚI
Chỉ báo làm nên chỉ số của pháp lý tuệ giác, phải có lý luận, song hành cùng bình luận sự kiện, dữ kiện; lập luận, song đôi cùng phân tích thông tin, truyền thông; giải luận, song cặp cùng giải thích sự cố, biến cố; diễn luận song lứa cùng trao luận. Pháp lý tuệ giác, sẽ cao, sâu, xa, rộng hơn luật pháp hiện hành vì pháp lý tuệ giác luôn có chỗ dựa chắc, vững, bền, lâu của lý thuyết luận: khả năng vận dụng kiến thức mới để bồi đắp cho tri thức đang có. Với phương pháp luận phải là khả năng tận dụng mọi phương pháp để phương pháp này biết bổ sung cho phương pháp kia. Cùng khoa học luận chính là khả năng khách quan hóa các khám phá mới rồi phổ quát hóa bằng hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức). Từ giá trị của tự do, của công bằng, nhân quyền đã ngự trị như pháp lý tuệ giác của những đòi hỏi chung vì nhân phẩm cho nhân vị. Câu hỏi cuối cùng khi ta nghiên cứu về nhân quyền chính là chân trời chung mà cũng là chân trời mới với các định đề, định luận vừa cũ, vừa mới, nhưng nhân quyền chính là kho tàng mà chúng ta luôn cần khai quật lên để thấy đựơc các giá trị nhân bản mới biết làm mới nhân quyền, có phải chăng đây chính là tuệ giác của nhân quyền?
Giải Luận: Trí Thức (P8)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).