Các người đã diệt
Nguồn yêu thương thời Thơ Mới của Xuân Diệu
Trong hành tác lãnh đạo bằng cuồng quyền của độc đảng, thì không sao các người cảm nhận được nguồn yêu thương trong mô thức Xuân Diệu. Muốn nghiên cứu về tâm trạng của con người, khi con người nhìn lại chính cuộc đời của mình để tự đánh giá mình, thì con người luôn cảm giác là mình yêu trễ và cảm nhận chậm khi được người khác yêu mình, chính chuyện cảm giác bị trễ-cảm nhận bị chậm này rất cần sự đánh giá về cuộc sống, mà tại đây các giá trị tâm linh là thước đo để đúc kết giá trị một đời người. Triết gia Jerphagnon khi nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Âu Châu để hiểu tại sao các minh sư triết học ngày càng đi sâu vào minh triết để hiểu các giá trị tâm linh.
Nơi đây, minh triết là minh lộ để con người tới được các chân trời tâm linh, tại các chân trời này con người sẽ thấy các kinh nghiệm của nhân phẩm, luôn song hành cùng các trải nghiệm của nhân văn. Tại các chân trời tâm linh này, con người sẽ nhận ra rồi nhận rõ các giá trị của cuộc sống, để hiểu tại sao lại có chuyện trễ, tại sao lại có chuyện chậm? Platon khi được Jerphagnon soi rọi qua cấu trúc triết học của chính Platon, luôn đi tìm để phân tích quan hệ giữa con người, linh hồn và thượng đế; nơi mà mỗi con người sống trong cuộc đời như đi trên một con đường, và trên con đường đó con người gặp-nhận-hiểu-thấu nhân vị của linh hồn, nhân sinh qua thượng đế, mỗi lần gặp-nhận-hiểu-thấu như vậy con người luôn tự đặt cho mình câu hỏi tại sao ta gặp-nhận-hiểu-thấu: trễ như vậy, chậm như vậy?
Augustin là trường hợp mà Jerphagnon ở lại thật lâu trong nghiên cứu của mình, trước hết St Augustin có tất cả các thành công trong xã hội, bằng tinh hoa của học thuật dựa trên tinh anh có trong sự thông minh của ông; nhưng năm 33 tuổi Augustin đã bỏ tất cả để đi tìm thượng đế, vì nếu nhận ra thượng đế thì sẽ hiểu linh hồn là gì? Cũng với sự thông minh xuất chúng của mình, Augustin không rơi vào chuyện mê tín, dị đoan, hoang tưởng, mà ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế với tấm lòng kính cẩn tuyệt đối.
Nhưng khi ta đọc kỹ tác phẩm Confessions (xưng tội) của ông, người ta nhận ra ông mượn chuyện xưng tội là để vinh danh nhân phẩm của nhân loại. Như vậy, chuyện ông tổ chức một cuộc đối thoại với thượng đế có thể chỉ là một cái cớ chăng? Cớ để ông biến đối thoại thành độc thoại, ông độc thoại với thượng đế để đối thoại với đời, với người, với chính thân phận của mình. Một cuộc độc thoại luôn muốn tìm con đường tâm linh để đi lên, lên cao, cao mãi để được ngang tầm với thượng đế. Như vậy sự thông minh làm nên nhân tri có thể hiểu được và thấu được sự thông minh của thượng đế; cho nên các giá trị tâm linh, tự chúng là những con đường cao tốc, cho phép chúng ta sử dụng tốc độ cao, để tới các đích xa, mà không làm trễ cuộc đời của chính mình, không làm chậm sự thông minh của nhân tri có trong mỗi cá nhân.
Pascal là trường hợp mà Jerphagnon thấy được cái ý thức của con người luôn khiêm tốn để tỉnh táo, luôn khiêm cẩn để sáng suốt, để nhận ra tâm trạng trễ, tâm cảnh chậm khi con người đứng trước các chân lý của khoa học, các sự thật của nhân sinh, các lẽ phải của đạo đức. Pascal luôn tìm định nghĩa để giữ định đề, giữ định đề để không lạc đề khi phân tích và giải thích mọi giá trị, từ toán học tới triết học, từ ngôn ngữ tới nhân sinh. Và khi vào để phân tích và giải thích các giá trị tâm linh, con người sẽ có định hướng qua định nghĩa của ngữ vựng rồi từ đó mà đi tìm ngữ pháp rồi ngữ văn cho các chiều hướng của tâm linh.
Trong không gian học thuật để khảo sát các giá trị tâm linh của Việt tộc, chúng ta không có Platon, St Augustin, Pascal mà cũng không có luôn minh sư như Jerphagnon, vì ngay trên thượng nguồn định đề về thượng đế không có mặt trong văn hiến của Việt tộc, vì chúng ta đã chọn Trời, chọn Phật rồi. Nhưng không phải như vậy là chúng ta không có gì cả! Không biết gì hết! Chúng ta có rất nhiều, chỉ cần chúng ta dò lại, xem lại, không qua tư tưởng, không qua triết học, mà qua thi ca. Thí dụ về câu chuyện mình luôn cảm giác là mình yêu trễ và cảm nhận chậm khi được người khác yêu mình, câu chuyện cảm giác bị trễ-cảm nhận bị chậm, thì ta cứ trở về cõi thơ của Xuân Diệu: Tôi buồn nhìn lá hồng tuôn… Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương…
Ở đây, câu đầu có cái buồn khi nhận ra cái tuôn, tại đây cái rơi, cái tuôn, rụng tràn ngập theo bao sự mất mát, thấy sự vật rơi rụng như tuôn mà không làm gì được, chỉ thấy buồn, buồn vì tiếc, tiếc về sự rơi rụng chính là sự mất mát mà chúng ta không cảm nhận được trọn vẹn trước khi chúng rơi, rụng, tan.
Các người là lãnh đạo của ĐCSVN muốn tìm nguồn yêu thương của Xuân Diệu, thì các người còn phải cảm nhận được chuyện có-và-không-có trên cõi đời này để nhận ra chiều hướng tâm linh Việt tộc; cụ thể là mỗi lần chúng ta đọc để hưởng các tác phẩm của Platon, St Augustin, Pascal, thì chúng ta phải tự trở lại tâm linh Việt để thấy đầy đủ rồi nhận trọn vẹn cái đẹp và cái hay của Xuân Diệu. Từ đây, các người sẽ hiểu là chiều cao tâm linh của nhân loại làm nên chiều sâu tâm linh Việt tộc!
Các người đã diệt
Nguồn sinh linh của Trần Dần
Đây là nạn nhận đầy nỗi khổ niềm đau cả một nhân kiếp đã bị các người là các lãnh tụ của ĐCSVN vùi dập từ phong trào Nhân văn giai phẩm. Nhưng các người không hề hiểu gì về Nguồn sinh linh tràn đạo lý của Trần Dần: “Càng chết tôi càng bất tử”. Câu chuyện tâm linh thường hay qua lại giữa cõi sống và cõi chết, nhưng nếu con người định nghĩa đúng về cái sống và cái chết, thì các giá trị tâm linh sẽ giúp con người phân biệt được: cái sống trong chướng nhục và nhận cái chết trong tinh anh. Đó là câu chuyện của bác Trần Dần, bị bạo quyền độc tài đầy đọa nhiều năm sau oan án Nhân văn giai phẩm 1956-1960; bị tà quyền văn nô hãm hại liên tục cho tới thế kỷ mới, năm 2000; bị ma quyền bút nô trù dập cho tới ngày qua đời.
Nên thi ca của Trần Dần là sự sáng đi tối về của các giá trị nhân tâm sắc nhọn, nhận chướng kiếp và nhận luôn tử kiếp. Khi thế kỷ mới tới, bác đặt câu hỏi: «Ai tăng cửa sinh? Ai rình cửa tử?», vì bạo quyền, tà quyền, ma quyền vẫn quanh quẩn bên nhau, quyện lấy nhau để thành âm binh, trùm phủ bóng tối của chúng lên số phận của Việt tộc, chúng rình rập để đe dọa sự sống. Mặc cho âm binh rình rập, nội dung tâm linh có trong thi ca, vì thi ca là ngã tư của bốn nhân tố: tự do đưa nhân tri gặp nhân tính, tự chủ dắt nhân lý gặp nhân phẩm, tự tin dìu nhân tâm gặp nhân từ, tự trọng dẫn nhân cách gặp nhân bản.
Khả năng của hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) khi nhập nội vào tiềm năng của hệ nhân (nhân tri, nhân tính, nhân lý, nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ, nhân cách, nhân bản) sẽ làm nên hùng lực tâm linh, để phân tích sâu xa cõi sinh, cõi tử. Từ đây, cá nhân sẽ thấy mình có cá tính để trở thành cá biệt, để tách xa âm binh; từ đó lấy số phận của chính mình để tra, suy, xét, đoán nhân sinh, để trả lời cho bạo quyền, tà quyền, ma quyền là mọi sự sống đều thiêng liêng. Mọi sinh vật đều là sinh linh, mỗi sinh mạng đều thiêng liêng, mà không một bạo quyền, tà quyền, ma quyền nào có thể diệt mà không bị truy, phán, phạt, xử, đây là luật và là quyền của tất cả sinh linh muốn sống bằng giá trị tâm linh của mình.
Trong lao lý, trong nhục hình, trong khổ sai, chính sinh linh với các giá trị tâm linh của mình đã bắt đầu tra, suy, xét, đoán để giúp lịch sử và pháp luật truy, phán, phạt, xử bọn bất nhân, thất đức qua lời của thi sĩ: Tha cho tôi. Tôi chưa đánh vỡ gì cả/ Tôi chỉ đánh vỡ của mọi người một mảnh sống: đời tôi. Không ai tin là lãnh đạo của ĐCSVN thâm thấu những thi từ này!
Và nếu lịch sử cùng pháp luật không thực hiện được công lý truy, phán, phạt, xử, thì chính nhân sinh sẽ bị mất mọi chân trời: Có những chân trời không có người bay/ Lại có những người bay không có chân trời.
Mất chân trời không những là mất tương lai, mà còn mất luôn các giá trị tâm linh, tại đây nếu con người không tự bảo vệ được các giá trị thiêng liêng, thì mất chân trời là mất lối thoát, là mất hẳn nguồn sinh linh của mọi sinh mạng, và sinh linh sẽ rơi vào tay của âm binh. Câu chuyện của khả năng của hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) khi nhập nội vào tiềm năng của hệ nhân (nhân tri, nhân tính, nhân lý, nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ, nhân cách, nhân bản) làm nên hùng lực tâm linh, bây giờ đã trở thành sự thông minh của tự do, sự thông thái của nhân tri: đây là định nghĩa về nội chất của tâm linh!
Hãy trao sự thông minh của tự do, sự thông thái của nhân tri các lối thoát về phía chân trời tới các nạn nhân của bạo quyền, tà quyền, ma quyền mà bản chất là tục quyền (ngược hẳn với thanh lực của tâm linh, vì luôn biết giảng thanh khi bị đố tục). Ở phía chân trời, con người không phải cúi đầu trong nhục hình, khoanh tay trong khổ ải, quỳ gối trong đọa đày, mà con người là những cánh chim tự do, tự do bay, tự do lượn, và nhất quyết không chấp nhận chuyện cúi, khoanh, quỳ, gục trong âm khí của âm binh.
Rồi từ đó, khởi duyên cho các giá trị tâm linh để các giá trị này khởi xướng tuyên ngôn là không chấp nhận kiếp tù: Hãy thù ghét mọi lao tù nơi thân ta rữa mục. Tôi không tin các người là lnh đạo của ĐCSVN thâm thấu những thi từ này!
Khi các giá trị tâm linh được định hình, thì các giá trị này đau đáu trong mất ngủ, vì thao thức với mọi nỗi khổ niềm đau của nhân sinh, chết đi rồi mà không vơi, không yên trước cái đau của đồng loại: Chết đi tôi vẫn mất ngủ/ Eo ôi, chết vẫn không yên. Tôi không tin các người là lãnh đạo của ĐCSVN thâm thấu những thi từ này!
Khi thi sĩ lấy cái chết làm điệp khúc cho bài thơ của mình, thi từ chết được nhắc đi nhắc lại, để tạo nên cái không còn sợ chết nữa! Giờ đây, thi từ chết làm nổi lên, làm thức dậy, làm sống lại nhân phẩm mà không một bạo quyền nào có thể dùng nhục hình mà mô hình hóa nó theo tà khuôn, và đây là tuyên ngôn của hùng lực tâm linh: Càng chết tôi càng bất tử. Khi cái bất tử đã vượt lên cái chết, thì cốt lõi của tâm linh vẫn là sự tha thứ:
Hãy ôm lấy thế giới này, tha thứ cho nó. Tôi không tin các người là lãnh đạo của ĐCSVN thâm thấu những thi từ này!
Các người đã diệt
Sung lực tạo hình của mô thức Nguyễn Gia Trí
Có lần nào trong cuộc đời chỉ biết độc đảng trong độc quyền, độc trị trong độc tài nhưng bất tài của các người đã thấy để thấu một tác phẩm sơn mài nào mà có một nghệ thuật vô cùng thoải mái, phóng khoáng đi cùng với một kỹ thuật tinh tế, sắc nhọn, mà tôi chưa gặp trong sơn mài Việt Nam, cũng chưa hề thấy trong sơn mài Nhật Bản hoặc Trung Quốc.
Có lần nào trong cuộc đời chỉ biết cực quyền trong cuồng quyền, xưng danh là vô sản nhưng đích danh là vô học các người nghe được tâm sự của họa sự này: “Vấn đề không phải là trừu tượng hay không trừu tượng, mà đây là tác phẩm thử thách lớn trong cuộc đời nghệ thuật tạo hình qua sơn mài của tôi. Qua bức Âm dương này, tôi muốn thực hiện cho bằng được màu vàng trên cánh con gián, một thử thách đã lấy rất nhiều công sức của tôi”.
Trong khi đi tìm cái đẹp mới, thì kẻ sáng tạo đã có ý định là dứt khoát với cái cũ, với ý muốn là cắt các quan hệ với cái cái bình thường, cái thông thường, cái thông dụng, cái thực dụng đã có mặt trong mỹ quan, trong thói quen, trong xã hội. Cái đẹp mới dưới dạng một tác phẩm của sáng tạo, nó cùng lúc tạo một khoảng cách, một tách biệt, một chia lìa với cái cái bình thường, cái thông thường, cái thông dụng, cái thực dụng. Chính đây không những là lối đi của nghệ thuật hiện đại thế kỷ thứ XX, mà còn là ý tưởng của phái siêu thực (surréalisme).
Kinh nghiệm hay nhất tại Việt Nam vẫn là của danh họa Nguyễn Gia Trí dùng tự do nghệ thuật của mình để tạo ra cái đẹp mới, để chọn cho mình cái tự chủ, cái tự sinh, cái tự tồn, cùng lúc làm một cuộc khai phá hoàn toàn mới không những trên kỹ thuật sơn mài mà còn mới về tư duy, ý tưởng, lý luận trong sáng tạo ra cái đẹp mới!
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.