Các người đã diệt
Ngữ nghĩa linh hồn của mô thức Hàn Mạc Tử.
Thi ca với trạng thái tâm linh theo mô thức Hàn Mạc Tử, không có chỗ đứng, ghế ngồi trong thi đàn từ khi các người lãnh đạo ĐCSVN trước là cướp chính quyền sau là độc quyền trong độc tài nhưng bất tài trên mọi lĩnh vực của tâm linh. Các người không có một lãnh tụ nào bình phẩm trong đứng đắn, đàng hoàng, tử tế về phạm trù thi ca của linh hồn Việt, trong chế độ của các người không có: “Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo nữa/ Để nhắn hồn em đã tới nơi”.
Trong hoạn nạn, mà trường hợp của Hàn Mạc Tử là hoạn bịnh, khi con người lâm bịnh mà biết đó là trọng bịnh thì chính trong nan bịnh con người đó đã cảm nhận là mình đã gần cái chết hơn gần sự sống, vì cái hoạn giờ đã thật sự thành cái họa. Cái nan bịnh làm tăng khoảng cách giữa người bị bịnh và người không mang bịnh, nó tạo ra cái khoảng cách (thật khốn kiếp) giữa người và người, nên người ta không cách xa nhau hàng ngày, hàng dặm mà cách xa hàng thế giới. Cái thế giới không bị bịnh không nhận ra vì không hiểu được, không thấu được nỗi khổ niềm đau trong thế giới của người lâm trọng bịnh. Bi đát nhất là kẻ mang hoạn bịnh phải tự tìm cách đứng xa những ai không bị bịnh, để tránh kẻ khác phải chịu, phải nhận, phải gánh nỗi khổ niềm đau của mình. Cõi riêng tư của kẻ mang hoạn bịnh là tạo ra sự tự cô lập, rồi vô tình hay cố ý người bịnh sẽ sống trong sự cô độc, rồi nhận chịu chết dần chết mòn trong cô đơn. Bạn ơi, nên bắt đầu suy nghĩ về các giá trị tâm linh của kẻ mang hoạn bịnh trong cô lẻ.
Nhưng các giá trị tâm linh chính là các giá trị biết vượt thoát sự lẻ loi, để vượt thắng chuyện mình bị bỏ rơi! Thoát để tự mình tạo khoảng cách với nhân sinh, rồi thắng là mình không bỏ nhân tâm, và dụng nhân tâm đó để thấy nhân tình, để tiếp tục yêu nhân thế. Đó là câu chuyện của Hàn Mạc Tử: “Lặng nhìn trong mộng miệng em cười. Em cười anh cũng cười theo nữa”, các giá trị tâm linh biết lặng nhìn trong mộng để thấy được miệng em cười, mà cũng là để biết trong nan bịnh mình vẫn tỉnh táo để “mộng”, vẫn sáng suốt để nhận ra nụ cười của sự sống.
Để làm gì vậy? Để nhắn hồn em đã tới nơi, để nhắn tâm hồn kẻ không bịnh, đang sống, đang đẹp với nụ cười là đã tới nơi; mà nơi đây là nơi có tâm hồn của thi sĩ, có linh hồn của kẻ mang trọng bịnh, đang tự gầy dụng một cõi tâm linh để vượt thoát nan bịnh, để vượt thắng hoạn bịnh, để tự cứu mình: Níu hồn ai? Vì muốn vớt ai?… Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện/ Trong lòng và đang tắm máu sông ta/ Ta muốn vớt ai ngoài sóng điện/ Để nhìn xem sắc mặt với làn da».
Câu chuyện tâm linh là trí tuệ biết tạo ra một vùng tâm cảm mới, với một tư tưởng tinh khiết mới, làm chỗ dựa cho tuệ giác sống với người và không bỏ rơi ai cả, tại đây nhân cách sống đã trao thân gởi phận cho nhân tâm sống. Trí tuệ của tâm linh là lấy nhân tâm sống để điều tiết và điều chế nhân cách sống.Trong tâm lý học ý thức, James tin là có một cái tôi hoàn toàn cá nhân (Moi personnels), giúp ta luôn ở trạng thái sáng suốt nhất của ý thức, luôn gắn bó với sự sống chung quanh, từ đó tạo dựng ra cái tôi chủ động (Moi dynamique) để giữ vững chủ thể ý thức, liên tục có mặt trong nhân tính; và James đưa ra hình ảnh một con chim vừa biết vượt giông tố, còn biết luôn cách tránh vực sâu, lách núi nhọn. Hàn Mặc Tử sống trọn vẹn với ý thức luôn biết mở rộng vũ trụ quan của chính mình, chính nhờ vũ trụ quan này mà thi sĩ đã tin vào các giá trị tâm linh Ta muốn níu hồn ai, vì Ta muốn vớt ai. Một người mang nan bịnh như Hàn Mặc Tử đã có tầm vóc tâm linh níu để vớt, vì muốn cứu để giữ.
Ý thức của níu-để-cứu đã đi xa và bay cao hơn trọng bịnh của thi sĩ, câu chuyện này vượt xa hơn câu chuyện tự cứu mình, và nó cao hơn câu chuyện về nghệ thuật sống chỉ thấy cái đẹp cho riêng mình. Tư duy tâm linh tạo có dũng lực tạo ra một luồng ý thức để trả lời hai câu hỏi cốt lõi của cuộc đời mỗi người, câu thứ nhất: «Ta muốn gì?», câu thứ hai: «Ta muốn trở thành loại người nào?» trong cuộc sống hữu hạn này. Loại câu hỏi dựa trên động từ trở thành, thì động từ này chính là thượng nguồn của mọi hành động thôi thúc các giá trị tâm linh phải nhập cuộc để trợ duyên cho đời, để trợ lực cho người.
Đây là quyền năng làm nên sự bật dậy của tâm linh, thúc Hàn Mặc Tử ra khỏi hoạn bệnh, thoát khỏi nan bịnh, có khi còn vượt thắng cả trọng bịnh, đang băng hoại thể chất của thi sĩ. Nếu có được một giá trị tâm linh mới là sẽ được vào một vũ trụ mới, ngoài cái quỹ đạo của thần chết đang đục mòn thân xác ông: Hồn hỡi hồn, lên nữa, quá thinh gian/ Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực. Nếu có giá trị tâm linh rõ và mạnh thì sẽ có ý thức muốn sống còn, giờ đây đã thành ý lực của chất sống, chan hòa ý nguyện, mang tầm vóc quyết đoán của tâm linh, kịch liệt không để cái chết đe dọa cái sống. Tại đây, ý lực chính là dũng lực của tâm linh, không để cái họa đe dọa cái người: Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu/ Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều… Không một tiếng gì nghe động chạm/ Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.
Trong tác phẩm Phản xạ tâm lý (Automatisme psychologique), Janet đã nhận ra được là có những tác hành tiềm thức (actes subconscients), làm lệch các quy luật của mọi thể chất đã có chỗ đứng trong thực tế, có lẽ theo tôi thì các tác hành này đi lại để thường xuyên thăm viếng các giá trị tâm linh, giúp ta sống còn qua thử thách thập tử nhất sinh, giúp ta sống sót qua thăng trầm một đi không trở lại trước lãnh thổ của cái chết. Trong các trào lưu nổi bật của khoa học thần kinh, có công trình của Henry Ey đã phân tích được là một con người có ý thức là con người khi nó chủ động được thời gian tính bằng ý thức của chính mình. Từ thời gian tính này, Penrose tin rằng có một nguyên tắc ý thức, giúp chủ thể ý thức làm được chuyện đi ngược dòng thời gian.
Đừng tự cô lập mình mỗi lần đối diện với các giá trị tâm linh, chính sự cảm nhận sâu xa về các giá trị tâm linh muốn: níu ai để cứu ai, có mặt để chế tác ra hai tuyệt chất mới: thanh khí (souffle pur), và tinh anh (l’intelligence vive), minh chứng cho sự có mặt của tâm linh muốn giữ cuộc đời, một ý thức về thân phận làm người trước vũ trụ, từ đó tạo nên sự sáng suốt riêng, để tìm tới thanh khí, bằng cái tinh anh: Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt… Anh đã gặp hồn em đang chới với… Chúng ta biến, em ơi thành thanh khí… Cho tan ra hòa hợp với tinh anh.
Ý lực của tâm linh khi đi tìm thanh khí là để tạo ra cái đồng cảm với vũ trụ, để người được thăng hoa giữa đời. Và trên con đường đi tìm một ý thức mới này, con người còn tạo được một nhân sinh quan mới cho mình, nó không nhỏ hẹp kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, mà nhân sinh quan này chan hòa trong thế giới quan của níu ai? Trong vũ trụ quan của cứu ai? Tâm hồn tấm gương soi: « Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi/ Môi đầy hương tôi không ứa ngậm cười/ Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng».
Tâm linh có phải là cõi lung linh nhưng long lanh của tâm hồn? Muốn tìm câu trả lời thì phải đặt một tiền đề là tâm hồn là gì? Linh hồn là ai? Mà bao lâu nay, triết học phương Tây cứ đặt nó ngoài thể xác, chắc bẩm là nó cao hơn thân xác, sống còn với thân thể nhưng có nó luôn làm thể hình của cá nhân được nâng lên, cao lên, rồi triết học trân trọng đặt nó vào khu vực của siêu hình học, ở ngoài hình thể vật chất của con người.
Rồi bây giờ khoa học não bộ tức là thần kinh học lập lại liên minh với tri thức luận để xếp loại siêu hình học vào các phạm trù của tưởng tượng, tức là phản khoa học, vì tất cả chuyện của con người đều được quyết định bởi bộ óc. Kể cả chuyện tâm hồn rồi linh hồn đều do bộ óc quyết định, con tim chỉ là một bắp thịt giúp máu chuyển động để nuôi các tế bào của thân thể, nó không đóng một vai trò gì cả trong tình yêu, tình thương, tình cảm của tâm hồn, của linh hồn.
Câu chuyện của các giá trị tâm linh không phải là đặt nó trong con tim hay khối óc, cũng không phải là chuyện siêu hình học hay thực hình học của khoa học, mà là chuyện khả năng của trí tuệ, tiềm năng của tuệ giác của con người có làm được chuyện tấm gương soi được thế giới muôn thể, của vũ trụ vạn năng chung quanh ta hay không? Hình tượng tấm gương muốn soi để thấy và thấy để hiểu được thế giới muôn thể, của vũ trụ vạn năng, thì bản thân tấm gương này phải có thể lực, trí lực, tâm lực ngang tầm với thế giới, với vũ trụ. Cụ thể là tấm gương này có xứng đáng đứng ngang tầm với bản lĩnh của thế giới quanh ta, không chỉ có con người mà có cả thiên nhiên, môi trường với bao sự sống; nó có xứng đáng đứng ngang hàng với tầm vóc của vũ trụ đang bao bọc, che chở chúng ta hay không? Các giá trị tâm linh phải có nội công loại nào? Để trả lời các câu hỏi này.
Hãy lấy câu chuyện thế giới quan và vũ trụ quan của Hàn Mạc Tử để làm cầu nối giữa tâm hồn và tấm gương, để nhận ra câu chuyện Hàn Mạc Tử là dùng thi ca để nhập nội vào tâm linh học. Một chuyên ngành muốn ra đời thì phải biến các kiến thức của mình thành các lý thuyết luận phổ quát, biến các tri thức của mình thành các phương pháp luận chỉnh chu, biến giải luận của mình thành khoa học luận chỉnh lý. Hãy bắt đầu bằng câu chuyện: Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết, hồn là tâm hồn hoặc linh hồn vẫn chưa là chuyện hay, mà chuyện hay và lạ ở đây là: Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi, tai sao lại cợt? Vì cợt là để tìm hiểu xem con người có đủ lực, đủ tài, đủ tầm hiểu Hồn là ai không? Và, khi con người bắt đầu hiểu được về chuyện tâm hồn, linh hồn tức là câu chuyện của tâm linh (tâm hồn-linh hồn) thì môi đầy hương, và khi hiểu thấu các giá trị tâm linh thì được: Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng!
Các lãnh đạo của ĐCSVN không hề có hai kinh nghiệm mà cũng là hai vốn quý của Hàn Mạc Tử đã trao cho Việt tộc là mỗi lần ta tìm đến các giá trị tâm linh ta sẽ có một cõi: đầy hương với bao ánh sáng! Vì các người là những lãnh đạo của ĐCSVN, độc tài nhưng bất tài, cái bất tài của các người là cái trống vắng đến thảm hại những ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp trong mô thức thi ca Hàn Mạc Tử
Các người đã diệt
Nhân tâm của mô thức Hữu Loan
Trong sự nghiệp cướp chính quyền rồi độc quyền bằng bạo quyền, các người không hề có các định nghĩa lý thuyết về giá trị tâm linh. Đừng xa nhân thế, đừng lánh nhân tình, mà hãy nhìn sâu vào nhân tính để thấy rõ nhân tâm, rồi lấy điểm khởi hành là nhân từ, để đi trên con đường nhân đạo mà tìm tới tâm linh. Hãy dụng chữ nhân vì người-vì đời, để nâng niu các giá trị tâm linh, và các giá trị sẽ xuất hiện rành rành trước mắt chúng ta, với gốc nhân ái của chúng, luôn làm chỗ dựa cho nhân tính, có rễ sâu của của nhân từ qua cái tâm làm nên nhân tâm, bạn ơi, đây chính là địa chỉ, nơi cư trú của các giá trị tâm linh.
Các giá trị tâm linh có nguồn, có cội là nhân tâm, nên các giá trị này không cần tôn giáo để tồn tại, không màng tới tư tưởng để đứng vững, càng không thiết tha gì tới ý thức hệ để hoạt náo nó trong nhân thế, và càng xa lạ với chuyện mê tín, dị đoan nơi mà người ta tưởng tâm linh qua đồn đại là có liên hệ với cõi âm, mà mắt thường không thấy được, và phải nhờ thầy bùa, cô ngải chúng mới xuất hiện.
Có chuyện lạ là các giá trị tâm linh luôn được coi là thiêng liêng, và chuyện thiêng liêng này không hề liên can tới ma quỷ, thánh thần gì cả, nó thiêng liêng ngay trong nhân từ, nhân nghĩa, nhân tâm làm nên nhân thiêng. Tại đây, con người cũng có tầm vóc như Thượng đế, Chúa, Phật, thánh thần… để làm được những điều hay lẽ phải, vì nhân sinh quan của nhân tâm (mà Phật giáo gọi là vô lượng tâm) cũng có bản lĩnh bao la như thế giới, cũng có tầm vóc mênh mang như vũ trụ.
Hãy kể chuyện của bác Hữu Loan, đứa con tin yêu của thi ca cận đại, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, được quần chúng yêu thơ bầu là bài thơ tình hay nhất của thi ca hiện nay, mà bác cũng là một trong những nạn nhân của bạo quyền độc đảng phản tâm linh. Khi ĐCSVN tác yêu tác quái với tà quyền trong sinh hoạt văn nghệ dưới sự đồng lõa của loại thi sĩ tà tâm như Tố Hữu để hãm hại những tác giả của Nhân Văn Giai Phẩm sau những năm của Cải cách ruộng đất, thì số phận thi ca và phần số công dân của bác Hữu Loan đã bị đẩy tới đường cùng.
Hữu Loan nhận nghiệp bất đắc dĩ với một nghề mới: “thồ đá”, khiêng đá sống qua ngày, mà bác xem như một nghề bình thường, không coi là nhục hình, chấp nhận số kiếp mới với tất cả liêm sỉ của mình, giữa thanh bần có cái cao thượng của thanh bạch, dù đời sống hằng ngày rất thanh đạm, chắc cũng nhờ vào cái tâm của nhân tâm.
Hãy cứ ở lại trong thời kỳ sắc máu của Cải cách ruộng đất 1956-1958, cái tâm của nhân tâm trong bác Hữu Loan đã có: bác cứu vớt một cô gái bị bỏ rơi giữa đời sau khi cha mẹ, gia đình của cô gái này bị các tên đồ tể của cuộc thảm sát này giết hại. Bác còn thành hôn, lập gia đình với cô gái ấy, trước những con mắt cú vọ của đám bút nô ma bùn, trước các lời đe dọa bỉ ổi của đám tuyên giáo ma xó. Và, bác trai cùng bác gái đã thành bạn đời đầy nhân vị trong một chế độ phản nhân văn, chống nhân bản để diệt nhân tính, cặp vợ chồng này bất chấp mọi thù hằn của bạo quyền công an, mọi rình rập của bọn tà quyền văn nghệ, mọi kỳ thị của bọn ma quyền bồi bút.
Tình yêu đầy thử thách này, tình yêu ngập thăng trầm này tự nó mang theo các giá trị tâm linh của nhân tâm, xin bạn hãy cùng tôi gọi nhân tâm của bác Hữu Loan là nhân thiêng, nó thật thiêng liêng vì người-biết-cứu-người, mà không cần tới thượng đế, đạo giáo, thần thánh… Vì giá trị tâm linh này chỉ được chế tác bằng chất tâm của nhân, mà cả đời nó không hề sợ bất cứ một ý thức hệ nào dọa nạt nó, một bạo quyền độc trị nào hăm dọa nó.
Nhân tâm của Hữu Loan chính là nhân thiêng của Việt tộc biết cứu vớt những nạn nhân của bạo quyền trong cải cách ruộng đất, nơi mà các người là những lãnh đạo của ĐCSVN vừa giết người qua đấu tố, vừa triệt nhân tâm Việt qua nhiều thế hệ. Nhân tâm của Hữu Loan đi trên vai não bộ của các người, nhân thiêng của Hữu Loan đi trên đầu não trạng của các người.
Các người đã diệt
những sớm mai xanh của Hoàng Cầm
Các người đã truy diệt Hoàng Cầm trong Nhân văn giai phẩm, các người vẫn tiếp tục vùi dập nhân tài thi ca của Việt tộc sau ngày đất nước hết huynh đệ tương tàn, mà thủ phạm cũng chính các người. Các người chắc không sao có tầm vóc để cảm nhận các thi tứ của Hoàng Cầm trong Chào Sớm Mai: “Bỏ lại sau lưng hoàng hôn ráng đỏ/ Gậy nghiêng mình chào những sớm mai xanh”.
Vô tâm linh lại vô giáo lý, các người đâu biết tự đào thật sâu tâm hồn của mình để nhận ra các giá trị tâm linh, vì con đường tự do đang sâu lắng, đang hiện diện trong mỗi chúng ta. Như vậy, muốn đi tìm cõi tâm linh thì hãy tìm ra con đường đi tới cõi đó, muốn nhận ra các giá trị tâm linh, thì phải để đẩy đủ thời gian đi tìm ra các giá trị ấy. Và, trên các nẻo đường đi này, ta đã có niềm tin vui sống để nuôi hy vọng sống vui, với tâm hồn rộng mở, chỉ cần thêm sự nhạy cảm với nỗi khổ niềm đau, với nỗi vui điềm phúc của nhân sinh, lấy sự cảm thông để cõng, bồng, bế, nâng cái nhạy cảm này.
Con đường đi tìm cõi tâm linh, có kho tàng là các giá trị tâm linh, bạn hãy giữ trọn công thức: Hãy làm hơn cái tôi đã có bằng cách vượt cái tôi đang có! Để tìm bạn, tìm thầy, như tìm các linh hồn mới, cũng chính là sự thông minh mới; một cái tôi mới và khác sẽ biến cái tôi nhỏ bé trở thành cái tôi mênh mang. Mà Plotin thẩm định là một tâm hồn trọn vẹn biết ở trên cao! Nhưng không phải ở luôn trên cao, vì là tâm hồn rộng mở nên tâm hồn này lên xuống qua lại, để tiếp người, để nhận đời, để yêu cuộc sống hơn. Hoàng Cầm, chỉ cho Việt tộc con đường đó.
Muốn đi trên một con đường tâm linh hoàn toàn mới này, để tìm cõi tâm linh, có châu báu là các giá trị tâm linh đang đợi ta, thì bạn phải biết: Bỏ lại sau lưng hoàng hôn ráng đỏ, bỏ mà không thương tiếc, vất nó sau lưng để gạt đi khổ lụy của màu đỏ độc tài đảng trị diệt nhân phẩm bằng vô thần, giết nhân tâm bằng vô cảm, qua bao cuộc chiến thảm khóc làm nên màu đỏ của máu, máu của đồng bào, máu của dân tộc… Bỏ nó không khó, vì nó đã đỏ trong hoàng hôn, trong buổi xế chiều của nó, trong giờ tàn gục của nó.
Các người không hề biết chuẩn bị hành lý nhân tâm làm nên nhân phẩm mà thong thả trong thư thái, cứ thong dong trong thảnh thơi, hãy song hành cùng chiếc gậy (nhân tính làm nên nhân tri) của bạn, lấy cái vị tha mà ung dung trong nhân cách, lấy lòng rộng lượng mà nhàn hạ trong nhân dạng, vì bạn đang đi về phía thật đẹp mà: “Gậy nghiêng mình chào những sớm mai xanh”.
Các người không biết nghiêng mình chào nhân nghĩa, như chào sự thông minh vừa ra đời, chúng ta sẽ biết đón nhân lý, biết tiếp nhân trí, như tiếp bạn đồng hành tâm giao, đắc khí với ta. Mà chào, tiếp, đón, nhận để làm gì? Để chữa lành nhân sinh quan của các người đã bao năm bị nghẹn lưỡi bởi tuyên truyền vô minh; để chữa trị thế giới quan của các người đã bao năm bị què quặt bởi bạo quyền vô tri; để chữa khỏi vũ trụ quan của các người đã bao năm bị thui chột bởi đảng quyền vô tri.
Các người đã diệt
Những tấm lòng Việt đẹp trong
mô thức của Nguyễn Bính
Tôi đã gặp không biết bao nhiêu là cán bộ, lãnh đạo các cấp khác nhau, tôi nhận ra họ không biết cảm nhận Những Tấm Lòng Việt đẹp trong mô thức của Nguyễn Bính: «Em lo gì trời gió… Em lo gì trời mưa… Em lo gì mùa hè… Em tiếc gì mùa thu… Em cứ yêu đời đi… Ta cứ yêu đời đi…». Một bài thơ đẹp trong bình dị của một thi sĩ dễ thương luôn thảnh thơi trong tình yêu thì có giá trị tâm linh gì?
Mang được chiều cao tâm linh nào cho câu chuyện về các giá trị tâm linh? Chắc là có, vì khi ta soi rọi sâu vào các động từ lo gì rồi tiếc gì để tìm tới các hành động cứ yêu đời đi ta sẽ thấy, sẽ nhận ra các đoạn đường tâm linh của bản lĩnh biết gạt ra khỏi cuộc sống những lo toan (vì có gì đâu mà lo!), để thấu một nội công biết tiếp nhận hành tác: cứ yêu đời đi.
Không lo gì rồi không tiếc gì để cứ yêu đời đi là một thái độ của minh triết, mà cũng là một hành động dựa trên một động cơ tâm linh, vì không lo, không tiếc gì để yêu đời chính là nội chất của tâm linh. Minh triết đi tìm cái an trong an nhiên tự tại, còn tình cảm khi đi tìm các giá trị tâm linh thì nó đâu muốn an, đâu muốn yên, đâu muốn rút vào chuyện an phận thủ thừa, nó giục con người bằng động từ: cứ yêu vừa can đảm, vừa thiêng liêng; nhất là yêu đời, yêu sự sống, yêu người… để giành tình cảm thiêng liêng (tâm linh) cho những ai xứng đáng được ta yêu.
Sự khác biệt của tâm linh là nó không yên, vì nó muốn long lanh, nó luôn loáng lên để thúc người ta đi về hướng yêu, vì nó biết chắc bẩm là hướng yêu này: vừa hay lại vừa đẹp vì chúng vừa tốt lại vừa lành!
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.