Ghi Chú NL : Đây là phần I trong quyển sách Triệt Luật của giáo sư Lê Hữu Khóa. Để tiện dịp cho độc giả theo dõi trong phạm vi thời gian giới hạn, chúng tôi xin chia ra nhiều phần.
Hiện sử là sử dụng dữ kiện của hiện tại và vận dụng sử kiện để tận dụng sử luận mà hiểu sử tính, mà lập chân dung và nhân dạng cho hiện sử Việt. Bạo quyền độc đảng hiện nay triệt hiện sử Việt với ý đồ triệt tiêu những hùng khí Việt đã làm nên hùng sử Việt của minh tộc Việt, của dũng tộc Việt, đã biết chống ngoại xâm để giữ gìn bờ cõi của tổ tiên.
Triệt hiện sử Việt là phần I của Triệt luận dựa trên ba chuyên ngành đã làm nên khoa học xã hội được định vị bởi khoa học luận thực nghiệm của M.Weber: nhân học, sử học, xã hội học.
Nhân học trong nhân Việt
Đất nước Việt Nam một lần nữa bị Trung Quốc xâm chiếm, lần này giặc phương Bắc bắt đầu cuộc xâm lược bằng cách chiếm hải phận của chúng ta, quần đảo Trường Sa thân yêu, trước đó họ đã chiếm Hoàng Sa. Lại một lần nữa, như nhiều lần trước trong lịch sử của Việt tộc, chúng ta sẽ đoàn kết với nhau để giữ trọn vẹn lãnh thổ của tổ tiên, vì tương lai của nhiều thế hệ mai sau, nhất là vì một đạo lý bao quát của nhân loại qua chữ: nhân, về đạo làm người, biết đạo lý và tôn trọng pháp lý. Chữ nhân lần này được thử thách trên một mặt trận lớn, đưa chúng ta đi xa hơn nữa trong nhân lý giữa bối cảnh toàn cầu hoá, trong nhân tính của quá trình thế giới hoá, chúng ta sẽ giữ cho bằng được nhân cách trước đe doạ của chiến tranh tới từ một đối phương lớn và thô bạo. Đây là một mặt trận vừa mới về nhân phẩm, vừa lớn về nhân sinh…
Trước thế giới, chúng ta phải đủ vai vóc của nhân nghĩa, tầm vóc của nhân giáo, nội công của nhân bản để thắng được đối phương trong lần thư hùng này, chính nghĩa của ta chính là nhân đạo, mà cha ông của chúng ta đã dạy chúng ta từ hồi lập quốc, từ khi Việt tộc là Việt tộc. Năm 1992, tôi chủ trì số báo: Chỗ đứng của văn hoá Việt Nam trong Khổng giáo, cho tập san Approches-Asie của đại học Nice-Sophia Antipolis, mà tôi đang làm giám đốc biên tập; ngoài các bài viết của các chuyên gia, tôi giữ chỗ trung tâm cho bài phỏng vấn về Bản sắc Việt Nam do giáo sư Hoàng Xuân Hãn đảm nhận trả lời. Tôi tránh vòng vo, hỏi trực tiếp giáo sư: Bản sắc Việt Nam là gì? Thì bác Hãn trả lời là: «Bản sắc của người Việt vừa là nhân phẩm của người Việt, mà cũng vừa là nhân phẩm của nhân loại trong chuyện làm người phải luôn đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của mình trước mọi thế lực ngoại xâm, nhất là những thế lực lại là những cường quốc».
Từ đó tới giờ đã hơn hai mươi năm, tôi không còn được nghe, được đọc các định nghĩa bản sắc của người Việt nào rõ ràng hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn định nghĩa này của bác Hoàng Xuân Hãn. Đây là chỗ dựa, chỗ đứng tạo ra lý luận và lập luận của tôi trong diễn tri chính luận này. Xin hãy coi đây như lời tâm huyết của tôi với tổ tiên tôi, với đồng bào tôi; rộng hơn nữa hãy coi đây như lời tâm sự của tôi với đồng loại -không phải chỉ là đồng bào của tôi- trong chuyện bảo vệ nhân tính của nhân sinh hiện nay. Vì trên trận đồ này, không còn là xung đột đơn thuần giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà là một chiến trường không biên giới giữa thế giới nhân bản và Trung Quốc bá quyền. Không những chỉ có Á châu, mà Úc châu, Âu châu, Mỹ châu, Phi châu hãy cảnh tỉnh! Cảnh giác càng sớm càng hay trên mặt trận này! Vì trước sau gì bành trướng sẽ vô nhân, bá quyền sẽ thất nhân.
Chữ nhân là cả sự nghiệp của Khổng Tử, dân tộc Việt Nam từ nhiều thế kỷ đã học và đã hiểu chữ nhân của người thầy gốc Trung Quốc này, và Việt tộc chúng ta sẵn sàng chỉ bảo nhau, rồi dạy cho các thế hệ mai sau phải đào sâu thêm chữ nhân này. Chúng ta còn học được ở Mạnh Tử, Trang Tử… khi họ diễn luận để làm phong phú thêm chữ nhân này của Khổng Tử, mà chúng ta coi như là một luận thuyết lớn của đạo lý, một chủ thuyết rộng của của luân lý. Vậy mà, tháng 5 năm 2014, giới cầm quyền Trung Quốc lại vô cùng thô bạo, biến thành loại cướp biển, chiếm thềm lục địa Việt Nam theo phản xạ bành trướng trong thói bá quyền, bất chấp đạo lý, gạt bỏ luân lý giữa các láng giềng biết tôn trọng lẫn nhau.
Bất nhân khi bắt bớ ngư dân Việt Nam, vô nhân khi bắn giết các lính biên phòng Việt Nam. Hãy đặt một giả thuyết: nếu Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử đang sống cùng chúng ta trong đầu thế kỷ 21 này, thì chắc chắn họ sẽ cúi đầu xin lỗi dân tộc Việt Nam! Hãy cùng nhau phân biệt «phong cách đại quốc» của Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử và «thái độ nước lớn bất nhân» của các nhà cầm quyền Bắc Kinh hiện nay. Nếu có «phong cách đại quốc», thì chúng ta sẵn sàng coi họ như đàn thầy, đàn anh… còn nếu chỉ có «hành vi nước lớn bất chính» đi ăn hiếp nước nhỏ láng giềng, cướp biển thì dân tộc ta đã có từ thủy man, bọn cướp biển man rợ.
Chữ nhân từ nay phải trở thành sách lược của Việt tộc trên mặt trận ngoại giao, chiến lược trên mặt trận quân sự, nhất là chủ lược trên mặt trận truyền thông của Việt Nam đối với thế giới để cảnh tỉnh toàn cầu về chủ nghĩa bành trướng vô nhân của Trung Quốc. Chúng ta sẽ dùng phạm trù nhân-hữu-nhân để đối mặt bọn vô-bất-nhân. Ông bà ta gọi chiến lược này là nhân địch luận, dùng nhân giáo của đối phương để thắng thái độ thô bạo, hành vi hàm hồ, phong cách lỗ mãng của đối phương, rồi biến chữ nhân ở đây đã trở thành: nhân dịp, nhân cơ hội, nhân thời cơ, nhân hoàn cảnh, nhân thời thế, nhân bối cảnh… để làm rõ chính nghĩa của ta, cùng lúc tạo điều kiện cho đối phương cải thiện, sám hối trở lại với nhân giáo do chính họ chế tác ra. Đây là loại chiến thuật thông minh, vì nó dựa trên đạo lý thông minh của đối phương, giúp đối thủ ta tìm mọi cách tránh cảnh sắc máu chiến tranh vô phương, chỉ vì vô minh của họ.
Cao hơn nữa, trong những ngày tháng tới, chữ nhân sẽ vừa là kim chỉ nam trong quá trình toàn cầu hoá nhân cách đạo lý Việt tộc, vừa là cầu nối nhân duyên giữa thế giới và Việt Nam trước thảm hoạ mới của chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc bất chấp công pháp quốc tế. Tứ hải giai huynh đệ sẽ được ta chuyển hoá thành năm châu nhân cách đạo lý Việt. Trong 40 năm sống với Việt học ở phương Tây, tôi học được nhiều phân tích của các chuyên gia, của giới chính khách, họ hiểu thấu về lịch sử Việt Nam, mặc dù họ không phải người Việt nhưng họ rất hiểu sâu người Việt, họ thống nhất trên nhận định: «Le peuple Vietnamien, un peuple farouchement indépendant» (Dân tộc Việt Nam, một dân tộc độc lập một cách quyết liệt).
Đừng hiểu chữ quyết liệt theo nghĩa quá khích mà hãy hiểu theo nghĩa quyết tâm, quyết chí và sẵn sàng quyết chiến để quyết thắng… Những chuyên gia phương Tây về Việt Nam này họ thấy rất rõ độc lập tính trong Việt Nam tính của dân tộc ta qua quá trình đánh giặc và đuổi giặc ra khỏi bờ cõi của tổ tiên. Các cường quốc ngoại xâm đã thua trận trên đất nước này, trong đó nhiều lần có Trung Quốc, trên ngàn năm chưa hề đồng hoá được Việt tộc.
Những năm gần đây, trong các buổi gặp gỡ tại Liên Hiệp Quốc về văn hoá, tôi lại nghe nhắc lại câu này: un peuple farouchement indépendant. Các chuyên gia ngoại quốc xem độc lập tính trong Việt Nam tính vừa là cái lõi lại vừa là cái gốc, vừa là cái nguồn lại vừa là cái rễ của dân tộc Việt…. Tựu trung, nó là cái trung tâm –nhân tâm– tạo thành cái cốt cách, thể hiện nhân cách đạo lý của Việt tộc. Người nước ngoài nhìn dân tộc ta không sai!
Việt sử: tâm luận xây sử luận
Với Tâm luận song hành cùng Sử luận, là dùng tâm sự để tìm tâm giao qua lịch sử, qua đối diện tôn kính trước các danh nhân của Việt tộc, qua đối thoại khiêm cẩn trước các công thần của đất nước, mà không hề có tham vọng truyền sử, không hề có ý muốn trao sử, nên không hề mong làm chuyện viết sử. Phương pháp luận của tâm luận dựa trên thượng nguồn là: sử liệu, chính chức năng của sử liệu sẽ làm rõ nét vai trò lịch sử của các nhân vật mà tác giả tâm luận xin đối thoại khiêm cẩn. Cũng chính sử liệu với vị thế rõ ràng trong sử học của Việt tộc sẽ tạo – được hay không- tâm giao giữa các nhân vật được lựa chọn, tâm luận tìm tâm giao, chỉ để làm sáng một điều là hiện tại của nhân sinh thấy-hiểu-thấu được quá khứ của nhân sử, để tìm nhân lý cho nhân thế. Cũng chính sử liệu là tiền để lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận làm gốc, rễ, cội, nguồn cho đối thoại với các danh nhân, đối thoại này ảo hay thực là tùy vào tính khả thi trong quá trình xây dựng sử học đang trở thành khoa học lịch sử, như ta đang chứng kiến trong các quốc gia có văn minh dựa vào khoa học xã hội và nhân văn.
Lý thuyết luận của tâm luận dựa vào hạ nguồn của phân tích-giải thích-phê bình diễn biến Việt sử (cận đại và hiện đại) của Việt tộc, trong một thế kỷ qua, với bao cuộc chiến tàn khốc hàng sâu trong tâm lý dân tộc. Với bi sử mà hậu quả thật dai dẳng khi chọn một ý thức hệ ngoại tộc: cộng sản với phong trào cộng sản quốc tế mà từ khi đi vào quỹ đạo này, thì số kiếp của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) không sao tách ra khỏi gọng kìm của Đảng cộng sản Trung Quốc (Trung cộng).
Bi kịch đã trở thành thảm sử, ĐCSVN đã buộc Việt tộc vào ba sử đạo thật bi đát: với một chế độ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị); mang theo nó một chế độ tham (tham quan, tham quyền, tham nhũng, tham ô); ngày ngày thiêu hủy sinh lực dân tộc; trừ khử đa (đa nguyên, đa năng, đa hiệu, đa tài) như đang khử loại thông minh, trí tuệ của bao thế hệ.
Khoa học luận của tâm luận, là chống độc luận, như chống lối tuyên truyền một chiều, bị ý thức hệ xỏ mủi dắt đi, hay bị quyền lực chóp bu giật dây, thao túng với ý đồ bám quyền-ôm lợi, bất chấp lợi ích của dân tộc, mà tiền đồ tổ tiên ngày ngày đang bị Tàu tặc đe dọa từ biển đảo tới biên giới đất liền, từ chính trị tới kinh tế, từ môi trường tới thực phẩm. Chống độc luận bằng đa luận với đa lý của đa nguyên mà chỗ dựa là lấy nhân tính, nhân tri, nhân tri trong nhân lý để phục vụ cho nhân sinh, nhân tình, nhân nghĩa vì nhân đạo. Chống độc luận bằng đa ngành với đa lý của đa chuyên, vận dụng tất cả các chuyên ngành, chuyên môn, chuyên gia không những trong trong sử học mà của chung cả khoa học xã hội và nhân văn.
Tâm luận khẩn nguyện xin sử luận tìm cho ra nội luận lãnh đạo: Tại sao các minh vương thuở xưa có bản lãnh gì mà làm được chuyện quốc thái, dân an? Tại sao các minh chúa thuở xưa có nội công mà làm được chuyện cơm no, áo ấm? Tại sao các minh sư thuở xưa có tầm vóc gì mà làm được chuyện trong ấm, ngoài êm? Tại sao các minh tướng thuở xưa có sung lực gì mà làm được chuyện giữ yên bờ cõi?
Sử luận dìu tâm luận vào não bộ lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân. Tâm luận chân nguyện xin đào sâu sử luận tìm cho ra nội chất kiếp Việt: Tại sao các lãnh đạo hiện nay lại không có bản lãnh gì để làm được chuyện quốc thái, dân an? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có nội công gì để làm được chuyện cơm no, áo ấm? Tại sao các lãnh đạo hiện nay không có tầm vóc gì để làm được chuyện trong ấm, ngoài êm? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì để làm được chuyện giữ yên bờ cõi?
Tâm luận tìm vào tim óc lãnh đạo hiện nay để tâm luận giúp lãnh đạo hiện nay làm được chuyện yêu nước, thương dân. Tâm luận cầu nguyện sử luận tìm cho ra nguyên nhân, lý do về nỗi khổ-niềm đau của Việt tộc: Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều dân đen-dân oan vậy? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều tham quan-tham ô-tham nhũng vậy? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bất bình đẳng, bất công vậy? Tại sao trên quê cha đất tổ hiện nay có quá nhiều bạo quyền–bạo lực-bạo động-bạo hành vậy? Tại sao các tướng lĩnh hiện nay không có sung lực gì để làm được chuyện giữ yên bờ cõi?
Sử luận giúp tâm luận vào thông minh Việt, sáng tạo Việt để tâm luận giúp Việt tộc làm được chuyện dân giàu nước mạnh. Hậu thế đây luôn xem Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử là các bậc thầy, nhưng hậu thế nay phải gọi bọn lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc là Tàu tặc, vì chúng đã thực hiện dụng ý xâm lấn, với ý đồ xâm lược, với mưu đồ xâm lăng đối với Việt tộc, chỉ có tên này mới đúng ngữ pháp việt.
Xã luận của xã hội học nhận thức
Khoa học luận của khoa học xã hội và nhân văn không phải là khoa học luận mô hình như toán học, cũng không phải là khoa học luận thực nghiệm qua thí nghiệm như sinh, lý, hóa… mà là các chuyên ngành bắt đầu bằng thực tế của nhân sinh (nhân học, xã hội học) và sáng tạo của nhân sinh (triết học, văn học) ngay trên thực tế đó. Tại đây, khoa học xã hội (nhân học, sử học, xã hội học) nó là nền tảng của kiến thức thực tế ngay trong thực tiễn của cuộc sống hằng ngày, và khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, triết học, văn học) xây dựng kiến thức vừa trên thực tế vừa trên sáng tạo của tư duy và lý luận của cá nhân hoặc tập thể sống trong thực tế đó.
Phương pháp luận là dụng phương pháp để nhận định trong khảo sát, phân tích trong lập luận, trực tiếp hoặc gián tiếp dùng phương pháp để tương tác hóa phương pháp; dùng phương pháp để bổ sung cho phương pháp, dùng phương pháp để củng cố cho phương pháp. Tại đây, phân tích định lượng phối hợp với phân tích định chất, phương pháp bản câu hỏi hỗ trợ cho phương pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê bổ túc cho phương pháp hồi ký… Lực bổ sung giữa các phương pháp trong điều tra và điền dã, sức củng cố giữa các phương pháp trong phân tích và giải thích, sẽ tác động vào ngay quá trình xây dựng và cải tiến khoa học luận và lý thuyết luận của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Lý thuyết luận là dụng lý thuyết để tăng cường lý thuyết qua lý luận, lập luận, giải luận và diễn luận; và lý thuyết luận là một ngữ pháp để mô tả quá trình hình thành lý thuyết như quá trình tổng kết và đúc kết kiến thức qua mô thức, tức là tổng quan hóa kiến thức qua tổng hợp hóa tri thức bằng công thức. Tại đây, lý thuyết cũ vừa là nền móng, vừa là dàn phóng để sinh ra các lý thuyết mới, ra đời để củng cố hoặc ngược lại để tấn công, đả phá, xóa đi các lý thuyết cũ, nếu các lý thuyết này sai. Chính tính đa chiều hóa mô thức, đa năng hóa công thức, làm nên tính đa hiệu hóa các lý thuyết, và làm nên tính đa nguyên giữa các lý thuyết trong khoa học xã hội và nhân văn; các lý thuyết vừa cạnh tranh nhau, vừa bổ túc cho nhau để phân tích và giải thích cuộc sống và xã hội, rất đa dạng của nhân sinh.
Khi mà khoa học nhân văn (ngôn ngữ học, triết học, văn học) có thể lao tác, thu thập phân tích và giải thích bằng kiến thức qua văn bản hoặc qua mô thức của tư liệu, và xã hội học cũng có thể thu thập dữ kiện qua văn bản và tư liệu. Nhưng thực tế xã hội (bây giờ và ở đây) cần được kiểm chứng và minh định các dữ kiện cùng các chứng từ trong xã hội qua nghiên cứu thực địa trong đó vai trò của điều tra và điền dã bằng các phương pháp định chất và định lượng biết bổ sung cho nhau. Tại đây xã hội học là một chuyên ngành của thực tế, thực tiễn, thực tại, cần thực địa, cần điều tra, cần điền dã. Như vậy, xã hội học không phải là một khoa học của lý thuyết, trong trừu tượng của chuyện phóng bút, mà không có nghiên cứu thực địa, không có điều tra và không có điền dã.
Xã hội học khi được công nhận là một chuyên ngành của thực tế, thực tiễn, thực tại, qua thực địa, tức là qua điều tra, qua điền dã, phải luôn được kiểm chứng qua quy luật khoa học lịch sử, đây chính là mức độ và trình độ chính xác của xã hội học: mọi dữ kiện xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, mọi quan hệ xã hội, mọi đời sống xã hội phải định vị trong không gian và định niên đại trong thời gian. Nếu không có minh chứng độ chính xác về không gian và thời gian, thì tất cả phân tích, giải thích, phê bình… đều mơ hồ, đều thất dụng cho kiến thức trong xã hội học. Tính tổng quát hóa lý luận của xã hội học không hề rời bỏ tính sắc nhọn về không gian và thời gian trong quá trình xây dựng kiến thức của xã hội học.
Xã hội học còn là một khoa học của bối cảnh xã hội, trong đó thực cảnh kinh tế và thực trạng văn hóa, tác động thẳng lên mọi sinh hoạt xã hội, từ hệ thống giáo dục tới đời sống tâm linh của các cộng đồng trong xã hội… Bối cảnh xã hội không ngưng động trong một mô hình, không chết cứng trong một mô thức, mà luôn luôn biến động qua các phong trào xã hội đòi công bằng, công lý, trong đó đạo lý của cộng đồng, đạo đức của quần chúng được tôn vinh. Bối cảnh xã hội cũng luôn là kết quả của các hành động xã hội của chủ thể, không còn là một cá nhân thụ động, không còn là một cá thể chỉ biết thụ hưởng, mà ngược lại nhận bổn phận với đồng bào, nhận trách nhiệm với đồng loại để không ngừng sáng tạo bằng sáng kiến của mình qua các phương cách sáng lập ra các công trình xã hội đúng về luân lý, và đẹp về đạo lý.
Xã hội học còn là một khoa học của lý luận so sánh, so sánh giữa các dữ kiện, so sánh giữa các chứng từ, so sánh giữa các phân tích, so sánh giữa các quá trình lý giải đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội… Phương pháp so sánh không hề rời quá trình tiến hóa và tiến triển của xã hội học, vì nó vừa giúp nhà xã hội học có nhận định tổng quan để phân tích tổng quát các định đề lý luận lớn, nó vừa mài dũa thật sắc nhọn các kiến thức chuyên môn của xã hội học. Tại đây, kiến thức xã hội do xã hội học khám phá ra sẽ trực tiếp tác động vào đời sống và các phong trào xã hội, cụ thể là các chủ thể xã hội sẽ dùng các kiến thức này để đấu tranh, thí dụ khi khám phá ra các quy luật và quá trình hình thành bất bình đẳng trong xã hội, thì trực tiếp hay gián tiếp các chủ thể xã hội này có thể dùng nó để đấu tranh chống bất công vì công bằng, để xây dựng nên một công lý mới, hợp lý hơn cho xã hội.
Xã hội học tổng kết vừa dựa trên phương pháp so sánh tức là so sánh những dữ kiện có thể so sánh với nhau được, nhưng xã hội học hiện đại đã bước thêm một bước trong khoa học luận để vào quy trình của phương pháp luận khoảng cách, tức là: khoảng cách càng xa giữa hai kinh nghiệm thì càng làm giầu cho kinh nghiệm chung của nhân tri, khoảng cách càng sâu giữa hai kiến thức thì càng làm giầu cho kiến thức chung của nhân trí, khoảng cách càng rộng giữa hai văn hóa thì càng làm giầu cho văn hóa chung của nhân loại.
Cụ thể, phương pháp luận khoảng cách sẽ dẫn, dắt, đưa, đón các nhà xã hội học nên tìm tới các chuyện tưởng là không so sánh được để thấy hệ đa (đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu, đa nguyên) của nhân sinh. Cứ so sánh các quốc gia phát triển với các quốc gia chưa phát triển để thấy chiều dài, để thấy các ẩn số của khoảng cách. Cứ so sánh các tôn giáo này, các văn hóa này với các tôn giáo kia, các văn hóa kia để thấy chiều rộng, để thấy các hàm số của khoảng cách. Cứ so sánh các chế độ dân chủ có nhân quyền với các chế độ độc tài do độc đảng để thấy chiều sâu các biến số của khoảng cách.
Xã hội học lý luận lấy cơ sở của hệ lý (từ chỉnh lý tới hợp lý) để nhận định không những các kết quả nghiên cứu, điều tra, điền dả, mà còn để kiểm chứng các bình luận, phân tích, giải thích trong quá trình xếp đặt các kiến thức tới từ thực tế xã hội. Tại đây, dữ kiện và chứng từ làm cơ sở cho quá trình trí thức về bối cảnh xã hội, tác động trực tiếp lên các hành động xã hội, cụ thể là đặt hành động này qua các bối cảnh được chứng thực, trong đó nhà xã hội xây dựng phân tích của mình: từ dữ kiện tới chứng từ, trong bối cảnh xã hội, qua hành động xã hội cụ thể của một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng đang sống trong một bối cảnh xã hội đó.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.