Triệt hiện sử Việt (P3)

Các người đã triệt: Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành

Việt tộc biết Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành qua ít nhất là ba phẩm cách, thứ nhất là võ tướng bẩm sinh, thứ hai là sáng danh phận trai thời loạn, thứ ba là công tướng trí dũng. Nhưng phải thống hợp cả ba để lấy ra hằng loạt bài học cho hậu thế, cho hiện tại, có trong phương pháp luận sử học so sánh cổ-kim của phương Tây. Vì Ngài là nhân vật tiểu biểu mà các nước văn minh có sử luận uyên thâm được mang tên là chủ thể cổ sử dẫn dắt hiện sử; cụ thể là các bài học của ngài để lại cho mai sau thì rất hiện đại giữa thời buổi hiện nay. Hậu sinh kể lại vài bài học của Ngài mà hậu thế không những phải ngẫm mà phải làm:

Mưu lược quân sự của Ngài để chống Nhà Tống có một không hai, khi chúng thấy oai dũng của Ngài thì tìm cách viết thư chiêu dụ, chúng đã lầm từ đó, vì Ngài không phải loại người sống để “đầu hàng”, mà mưu lược của ngài đi trên vai, trên lưng chúng! Trận Bạch Đằng của Ngài được xếp là thứ hai trong sử liệu, sau trận của mãnh tướng Ngô Quyền, trước trận của dũng tướng Trần Hưng Đạo, ở đây xin gọi Ngài là minh tướng. Vì giữa trận mạc, Ngài “giả hàng” để tiếp cận sát với địch, mà chủ đích giết được tướng của địch là Hồ Nhân Bảo, ngay trên chiến thuyền của hắn. Giả cầm cự trong thế yếu, giả hàng để sát kề thân địch, để diệt địch, và cứ thế mỗi trận một cách, trận Tây Kết thì bọn xâm lăng kinh hồn bạt vía! Hằng trăm các tướng lĩnh của Bộ Quốc Phòng hiện nay phải học kỹ các bài học quân sự của Ngài, Ngài ạ!

Tài lược ngoại giao của Ngài đã cướp hồn sư giả nhà Tống, cho nên các lãnh đạo của Bộ Ngoại Giao hiện nay phải học thật kỹ để luôn thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch. Khi gặp sứ giả nhà Tống, Ngài không làm theo ý chúng là xuống ngựa và quỳ lạy, mà Ngài vẫn ngồi trên yên ngựa để đối thoại với chúng. Ngài luôn làm tăng vị thế ngoại giao của đất nước Việt, khai thị cho bọn sứ giả nhà Tống để chúng phải nể trọng Việt tộc.

Lê Đại Hành thăng hoa dân tộc trong nước về nông nghiệp, kinh tế, rồi biến thành sách lược ngoại giao làm cho địch phải mở mắt là ta cũng thông minh, cũng giỏi, hay, tài, dũng như chúng. Để khi sứ giả nhà Tống trở về quê chúng phải viết lời công nhận: “Ngoài mặt trời xứ Tống, cũng có một mặt trời khác” (Đại cồ Việt).

Hành động lãnh đạo, của Ngài vừa thực, vừa sáng: Ngài cầy với dân, làm ruộng vì biết đất Việt phải mạnh về nghề nông để Việt tộc mới vững về kinh tế. Ngài kinh bang tế thế, với xây công trình thủy lợi, từ Ninh Bình tới Nghệ An. “Có thực mới vực được đạo”, mà thực đây vừa là thực phẩm mà cũng vừa là sự thực, ngài không bị sai lầm đến nhó nhăn như nguyên chủ tịch Trương Tấn Sang, như đương kim chủ tịch Trần Đại Quang là chỉ vác cày trên bờ ruộng để báo chí chụp ảnh; mà lố bịch nhất phải kể đến thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trồng cây, mà không phải là cây non (trồng cho lớn) bứng cây đã lớn chỗ này để cắm ở chỗ khác, để cho ông tưới vài phút cho truyền hình thâu ảnh rồi sau đó thì cây chết mặc cây!

Minh trí thập đạo của Lê Đại Hành đang bị triệt hủy ngay trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, vì ĐCSVN đang đi ngược lại bài học của Lê Đại Hành:”Biết chọn chân chính mà đem tài phò giúp. Biết tìm đường chính mà đi trong các nẻo rối ren của thế sự”.

Các người đã triệt: Lực đa dũng của Lý Thường Kiệt

Trong chế độc độc tài nhưng bất tài của độc đảng trị của các người sẽ không còn tầm vóc của cậu thanh niên Ngô Tuấn (tên thật của Lý Thường Kiệt), chấp nhận làm hoạn quan để phò minh quân, để kề cận với chuyện cứu nước-giữ nước, được mang họ Lý của vua với lòng tin yêu của vua, khi vua đã nhận ra bản lĩnh kiện tướng đa dũng của Ngài. Đa dũng với nhiều mặt trận khác nhau trong đời Lý, mặt trận phía nam chống Chiêm Thành luôn là nỗi bất an cho cả triều Lý, mặt trận phía bắc của nhà Tống luôn là mối đe dọa hằng ngày của Việt tộc.

Tầm vóc của Lý Thường Kiệt vượt ngoài phạm vi quốc gia, Ngài biết liên minh rồi tập hợp các dân tộc anh em miền núi để cùng nhau chống giặc Tống. Ngài còn đa dũng ngoài sức tưởng tượng của kẻ địch, Ngài đánh chúng ngay trên đất của chúng, đập tan mọi cơ ngơi chuẩn bị xâm lăng của chúng. Chiến thắng Ung Châu, Liêm Châu, Bạch Châu… của ngài trên đất giặc, làm cho giặc từ thẫn thờ kinh ngạc về lý dũng của Ngài đến ngơ ngác ngạc nhiên về trí dũng của Ngài.

Đa dũng được chế tác từ lý dũng trí dũng, có gốc là luận cho quả cảm, tức là không sợ, dù địch lớn, mạnh tới đâu đi nữa, được cụ thể hóa qua quyết định trong sáng suốt, quyết tâm trong tỉnh táo, quyết sách với tất cả thông minh thắng giặc vì biết “đi guốc trong bụng giặc”. Đa dũng là chỗ dựa của đa tài trong chiến thuật quân sự, linh động tùy cơ ứng biến; mỗi trận đánh, mỗi bối cảnh quân sự, Ngài luôn có cách tấn công thích nghi, có cách phòng thủ thích hợp, Ngài nắm thế “đi trên đầu giặc” để điều binh, khiển tướng.

Trong bối cảnh của đất nước hiện nay, trước họa của Tàu tặc, nhân dân không thấy lý dũng của các lãnh đạo độc tài trong ĐCSVN, không thấy trí dũng của các tướng lĩnh trong Bộ Quốc Phòng, mà chỉ thấy các khẩu lịnh đầy cạm bẫy: láng giềng tốt, đồng chí tốt… trong khi láng giềng này ngày ngày cướp đảo, cướp biển, giết ngư dân Việt trên biển Việt; còn đồng chí (trong tư duy tặc chí của chúng) thì thao túng, giật dây đẩy độc quyền đảng về phía tà quyền theo chúng trong ma đạo. Các người đang lãnh đạo ĐCSVN đã triệt lực đa dũng của Lý Thường Kiệt đã có dũng khí Việt tộc luôn biết làm ra những công tướng, những kiện tướng!

Các người đã triệt: Hồn thiêng quốc đạo của Trần Hưng Đạo

Việt tộc kính trọng và thờ phụng Trần Hưng Đạo như thánh (Đức Thành Trần) như thương yêu kính trọng các bậc khai quốc công thần, và giữa các khai quốc công thần dựng nước và giữ nước: Ngài luôn có chỗ một đứng thật cao quý (ngày hội Đức Thành Trần). Câu chuyện này có lý do của nó, mà của nó thì rất hay, đẹp, tốt, lành, vì phẩm chất của Ngài thật cao, sâu, xa, rộng để hậu thế học, tu, dưỡng, hành cả đời cũng chưa xong.

Ngài cao đẹp vì là người lãnh đạo vì nước quên thù nhà, trước bi kịch của cha là Trần Cảnh, trong thảm kịch nội hôn, mà chính gia đình Ngài chịu cảnh tan nát. Khi cha hấp hối, Ngài lại còn phải nghe lời cha dặn là: phải trả thù nhà! Trả hận cho cha! Ngài đã không làm chuyện đó, Ngài chọn hướng cứu nước, Ngài đứng về phía cứu dân, đạo lý này đủ cho Ngài làm lẽ sống cho mình suốt kiếp, và chuyện này thì tất cả các vua, các tướng, các quan, cả nước ai cũng biết, cũng trọng, cũng khâm phục ngài.

Ngài có thông minh quân sự trọn vẹn của một lý trí luôn sáng suốt, có dũng cảm lãnh đạo tràn đầy của một nhân cách tỉnh táo, phương pháp phân tích của Ngài rất thuyết phục vua mỗi lần cả nước thề một phen sống mái với Nguyên Mông. Sức thuyết phục của ngài trao truyền lan rộng tới tướng sĩ, binh sĩ, muốn biết mãnh lực của nó, thì hãy đọc Hịch Tướng Sĩ của Ngài. Trong Hịch Tướng Sĩ, Việt tộc luôn cúi đầu tiếp nhận trước lòng yêu nước của Ngài: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…”.

Quân tử tạo ra chính nhân, riêng Ngài đã đi xa hơn bao chính nhân, Ngài còn dìu dắt bao chính nhân trong thời đại của Ngài đi theo chính đạo mà chính đạo thời đó, trước đe dọa của Nguyên Mông, chính là quốc đạo (vì nước quên thân), quên luôn cả thù nhà, chỉ vì không được quên nước. Lòng kính phục của hậu thế trước đạo lý của Ngài có cớ sở vững: lấy sung lực lương tâm yêu nước để tạo nên lương tri lãnh đạo trong việc cứu nước-cứu dân, dụng lương tri lãnh đạo để làm sáng lên liêm sỉ vì dân trong nhân cách lãnh đạo.

Các người đang lãnh đạo ĐCSVN đã triệt đi hùng khí của Hịch Tướng Sĩ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…” để sa đọa trong lạm quyềnlộng quyền, suy đồi trong tham quyềntham nhũng. Các người không những hèn với giặc, ác với dân, mà các người còn đốn mạt với tổ tiên, với Đức Thánh Trần, khi các người đã dời lư hương trước đền thờ Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn, vì các người sợ Việt tộc sẽ tống cố Tàu tặc bằng Hồn thiêng quốc đạo của Trần Hưng Đạo.

Các người đã triệt: Tính minh lược của Nguyễn Trãi

Trong chế độ độc đảng toàn trị của ĐCSVN, các người đã triệt diệt tính minh lược của Việt tộc có trong Nguyễn Trãi, được đúc kết bởi bao tinh hoa của tổ tiên Việt, phải về Côn Sơn, mới hiểu tại sao đứa con tin yêu này của Việt tộc đã có những hùng lực thông minh lạ thường, để hiểu tại sao Unesco, Liên Hiệp Quốc công nhận Ngài như danh nhân của nhân loại. Ngài có giòng họ chính thống với Trần Nguyên Đán, Ngài đã hít thở trong nhân tri vững nhân trí của Chu Văn An, Ngài thâm trầm trong thâm học với kinh nghiệm của Huyền Quang, một trong ba sư tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài chắc chắn suy ngẫm nhiều tại sao Hưng Đạo Vương vừa tập trận ngay tại Lục Đầu, nơi sáu con sông tụ đầu ngay trên quê hương của Ngài, vừa là nơi mà Hưng Đạo Vương thường lui về để nghĩ ngơi.

Hãy tới đền thờ của Ức Trai tại Hải Dương để hiểu vì sao mà đứa con tin yêu của Việt tộc được nhân dân tại đây thương yêu đến chừng nào. Những người dân tại đây hẹn nhau tới đền thờ của Ngài, họ ngồi trò chuyện trong thảnh thơi, ung dung, thong dong, nhàn hạ trên tấm phản, ngay trong đền, ngay bàn thờ, dưới chân Ngài Ức Trai. Đây là, tổng kết của nhiều bài học: “ăn ở có hậu”, nên “dân thương, dân nhớ”, “ở người ta thương, đi người ta nhớ”… nhất là đối với các bậc khai quốc công thần. Ngược lại, tham quyền để tham nhũng, lạm quyền để lộng quyền như hiện nay, thì ngày rời cõi đời này, thì người nay và người sau họ “không thương, chẳng nhớ”, mà còn bị họ “rải muối” để không có lối về, không có đất mà dung thân!

Ngài để lại đời sau bao nhiêu bài học, trong đó có 5 bài học luôn cận kề với con cháu trong hiện tình đất nước đang bị đe dọa bởi Tầu tặc, dân tộc đang bị suy đồi về luân lý, lạc đường trong giáo dục, lầm lối trong xã hội… Chiến lược sáng trong chiến sự, đây là bài học đầu tiên mà ngài đã làm sáng cho thông minh quân sự Việt, Ngài dạy con cháu là chữ nhẫn đi cùng với chữ thời để tạo ra chữ thế. Ngay từ đầu, chữ nhẫn rất rõ, Ngài chờ những năm ròng ở Đông Quan, chờ ngày gặp chúa để cứu dân cho tới nơi, tới chốn; chữ thời và chữ thế, càng rõ hơn, khi Ngài cùng Bình Định Vương cầm cự nhiều năm dài trên núi Chí Linh.

Chính lý ngời trong ngoại giao, đây là mặt trận để con cháu thấy rõ Ngài vừa là quan văn, vừa là quan võ, hơn thế nữa Ngài là bậc thầy trên mặt trận ngoại giao, khi chính luận yêu nước Việt chính là lập luận chống tà quyền xâm lăng. Các lá thư Ngài gởi tới bọn tướng giặc, thường không thấy thư trả lời, và nếu chúng có liêm sỉ thì chúng phải cúi đầu khâm phục tài diễn luận và trí giải luận của Ngài về lòng yêu nước Việt của con dân Việt. Câu chuyện chính lý làm mức độ để nói lên trình độ chính tri trong chính trị, đây là câu chuyện cốt lõi hiện nay của đất nước trước họa Tầu tặc đang cướp biển, cướp đảo ta. Chúng ta chỉ thắng được ngoại xâm nếu ngay trên thượng nguồn chúng ta có đầy đủ kiến thức của chính lý và có trọn vẹn ý thức của chính tri.

Tâm lý chiến trong chinh chiến, Ngài cũng là thầy khai minh ra môn tâm lý chiến, tìm là mọi cách tác động lên tâm lý kẻ xâm lược, Ngài lý luận rõ cho bọn tướng, bọn lính của giặc là chúng bất chính trong việc đi cướp nước láng giềng, lại chịu cảnh bị đày đọa xa nhà, xa quê. Sống “vất va vất vưởng” nơi quê người, chết trận bằng xâm lăng, thì chỉ là “oan hồn”, thuộc loại “ma bùn” mà thôi! Có tướng giặc, cả binh lính thấy Ngài phân tích đúng (trúng tim gan của chúng), có khi nhận ra hàng, mà ta không cần phải đánh.

Ẩn tích để sáng danh, Ngài rút lui về Côn Sơn vì bọn nịnh thần, tham quan làm Ngài “lợm giọng”, chúng hãm hại Trần Nguyên Hãn, Ngài không những thấy rõ tâm địa của chúng, mà Ngài còn “đi guốc trong bụng” các vua nhà Lê, đồng thuyền trong đồng cam, cộng khổ, nhưng không đồng hội, trong yến tiệc của quyền lực. Đấy cũng là chuyện trình độ đạo lý của Ngài luôn cao hơn mức độ tính toán quyền lực bủn xỉn của các vua, của quan nhà Lê thời đó. Nhưng Ngài không “mai danh, ẩn tích”, mà Ngài ẩn tích để sáng danh, qua văn thơ kiệt xuất trong tâm hồn Việt, văn minh Việt, mà nay đọc lại vẫn thấy ngài rất hiện đại!

Nhân tri nuôi văn trí, các bài thơ, các văn bản do chính tay Ngài viết, nhất là Bình Ngô Đại Cáo, làm sáng ngời không những chính nghĩa dày trí dũng của Việt tộc, mà còn làm gốc cho một nhân bản bền vững trong nhân loại: “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo”. Một bài học cũng vô cùng hiện đại sẽ dẫn đưa Việt tộc đi tìm nhân quyền để chống bạo quyềnđộc quyền của độc đảng đang áp đặt trên số phận của Việt tộc.

Thảm kịch của các người từ lãnh tụ thuở các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN là các người không hề là những minh lược sư theo mô thức của Nguyễn Trãi, các người luôn tham quyền cố vị nên các người không bao giờ có được nhân cách mai danh ẩn tích làm nên nhân phẩm quang minh chính đại của Nguyễn Trãi.

Các người đã triệt: Hùng thế dũng lực của Quang Trung

Bi hài kịch của các người từ lãnh tụ thuở các người lập đảng rồi cướp chính quyền tới các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN là các người không có hùng thế dũng lực của Quang Trung làm nên thần tốc biết đuổi giặc xâm lăng ra khỏi bờ cõi trong chớp nhoáng. Trước khi Quang Trung trở thành Quang Trung Hoàng Đế, ngài đã là dũng tướng với bao dũng lực, ai hiểu Ngài đã phải thấy là thời buổi Ngài làm chuyện bình Nam, dẹp Bắc là vô cùng phức tạp, một thời đại dường như không có lối ra, nếu không có dũng tài quân sự, nếu không có dũng trí chính trị, nếu không có dũng khí lãnh đạo như Ngài.

Tại sao vậy? Chỉ tại vì Ngài một thân, một chính nghĩa đã phải đối phó với sáu mặt trận tức khắc vì khẩn trương: Mặt trận thứ nhất là Trịnh-Nguyễn phân tranh, một cuộc huynh đệ tương tàn bị xem như là không thể dứt, nếu không có Ngài. Mặt trận thứ hai dai dẳng với Nguyễn Ánh mà hận thù đã lên ngất trời được xếp loại là không đội trời chung. Mặt trận thứ ba là sự nhó nhé của thực dân qua con đường truyền đạo, mà ít nhiều Nguyễn Ánh đã rơi vào bẫy, khi khai thác triệt để Bá Đa Lộc. Mặt trận thứ tư là Thái Lan, thời đó tên láng giềng cơ hội, thừa nước đục thả câu, cũng được Nguyễn Ánh không ngừng sử dụng. Mặt trận thứ năm chính là ông anh cả của Ngài: Nguyễn Nhạc, tâm địa lắc léo vì ham quyền cố vị. Mặt trận thứ sáu kinh khủng nhất chính là quân Thanh đang xâm chiếm đất nước Việt, chúng vào Thăng Long với tư cách vô cùng thô bỉ của bọn cướp nước Việt và khinh người Việt.

Khinh thường người khác trong chiến tranh thì dễ sinh ra khinh địch, cho nên quân Thanh đã bị quét ra, quét hẳn, quét hết, quét trọn, quét sạch qua chiến dịch thần tốc năm mươi ngày của Ngài. Chúng phải chui, phải chạy và cuối cùng là phải xin được giữ thân để về lại được quê cha đất tổ của chúng. Hiện nay trên quê hương Việt, lãnh đạo hiện nay dường như chỉ có hai mặt trận tức khắc vì rất cụ thể. Mặt trận kinh tế quốc thái dân an để có cơm no, áo ấm rồi dần dà làm được chuyện dân giàu nước mạnh mà các láng giềng cùng nôi văn hóa tam giáo đồng nguyên với ta đã làm được (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc). Mặt trận quân sự phải giữ yên bờ cõi để giữ trọn tiền đồ tổ tiên, tức là hằng ngày phải quyết tâm-quyết chí-quyết chiến chống lại ý muốn-ý định-ý đồ của Tầu tặc là xâm lấn-xâm lược-xâm lăng đất nước Việt. Chỉ có hai chuyện thôi, thật rõ ràng, chỉ như vậy thôi mà Việt tộc hiện nay không thấy cụ thể gì cả trong hành vi-hành động của lãnh đạo độc tài nhưng bất tài của ĐCSVN!

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa  Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s