GIÁO LÝ CỦA TỰ DO
Chính tự do được bảo vệ sự thật đã hình thành sinh hoạt dân chủ, mà dân chủ không chỉ là một thể chế, một chế độ mà trước hết nó là giáo lý của tự do làm nên giáo dục vì công bằng, giáo khoa vì bác ái. Cũng chính tự do được bảo vệ sự thật dựng lên nhân sinh quan sống với sự thật, tạo ra thế giới quan đấu tranh vì sự thật, chế tác ra vũ trụ quan luôn minh bạch trước sự thật, để mở đường cho lẽ phải chính là nhân lộ của nhân bản. Khi con người để đánh mất tự do được bảo vệ sự thật, con người sẽ đánh mất tiếp ít nhất ba loại tự do khác dựng lên nhân vị của con người: tự do được giải thích để giải luận sự thật, tự do được đối thoại để đối luận về sự thật, tự do ngôn ngữ để ngôn thuận trước sự thật. Khi mất ba tự do này, thì con người đã xa văn minh dân chủ, đã rời văn hiến nhân quyền. Khi để tuột mất ba tự do này, thì con người đã mất nhân vị, đã bị lùi thấp trong nhân tri, mà tổ tiên Việt đã phân tích rõ ràng để phân loại rành mạch đó là số phận của con sâu cái kiến, ngắn cổ bé họng, ít hơi ngắn tiếng…. Đây là thảm họa của Việt tộc dưới bạo quyền độc đảng hiện nay.
CUỘC TRANH ĐẤU VÌ NHÂN TÍNH
Cuộc đấu tranh vì dân chủ trước hết là cuộc tranh đấu vì nhân tính, nơi mà nhân quyền đã mở các chân trời để công dân thành chủ thể. Nơi mà chủ thế của sử tính, hiểu lịch sự để làm tốt hơn lịch sử; chủ thế của đức tính, hiểu đạo đức để làm đẹp giáo lý; chủ thế của luật tính, hiểu công bằng để giữ công lý. Sự kết hợp các khảo sát đã mở đường cho liên minh trong nghiên cứu của tất cả các ngành khoa học xã hội và nhân văn, để từ đó có đồng thuận trong phân tích và giải thích về hậu quả mất nhân tính trước độc tài của độc đảng sự tha hóa trong quyền lực đã biến bạo quyền khi trở thành tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, đã đẩy nhân sinh vào lộ trình vô nhân tính; bạo quyền khi trở thành tham quyền, lạm quyền, lộng quyền đã đẩy nhân loại vào lộ trình vô nhân bản; bạo quyền khi trở thành cực quyền, cuồng quyền đã đẩy nhân thế vào lộ trình vô nhân văn.
MẤT MÁT SINH LỰC GIỐNG NÒI
Trong tư duy sâu lắng nhất của mọi công dân Việt, chúng ta phải trả lời các câu hỏi chúng ta đã: được gì? Mất gì? ngay trong nhân kiếp hiện nay của chúng ta dưới độc quyền của ĐCSVN. Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản kháng chiến để giành lại độc lập cho dân tộc trong tay thực dân, đế quốc để bây giờ chính các lãnh đạo cộng sản đã nhận Tàu tặc đã cướp đất, biển, đảo của chúng ta, xem bọn Tàu tà này là bạn, là anh, là cha thì chúng ta được gì? Mất gì? Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản khi thống nhất đất nước là sẽ xây dựng đất nước đẹp hơn 10 lần xưa, bây giờ đất nước là bãi rác của ô nhiễm hóa chất của Tàu họa, nhiễm ô bất nhân với môi trường, thất đức với môi sinh, từ boxite Tây Nguyên tới thảm họa Formosa, với nhiệt điện than của Tàu nạn trùm phủ lên số phận Việt, thì chúng ta được gì? Mất gì?
Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi cả tự do, để chọn an ninh xã hội kiểu công an trị, bây giờ chính công an tổ chức đánh bạc lận, cướp đất giết người, cướp của giữa ban ngày cùng với côn đồ, du đảng, lưu manh của xã hội đen, thì chúng ta được gì? Mất gì?
CHÂN TRỜI CỦA DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN
Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi công bằng trong văn minh để cúi đầu trước tư bản đỏ, tư bản thân hữu, của loại tư bản man rợ của tiền tệ-quân hệ-hâu duệ với phản xạ cướp ngày là quan, đã biến hằng triệu dân lành thành dân oan, thì chúng ta được gì? Mất gì? Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi bác ái có trong dân chủ để nhận độc đảng trong độc quyền để độc tôn sau khi vơ vét bằng tham nhũng, sau khi nạo vét tới cùng tận tài nguyên đất nước bằng tham ô; cùng lúc dùng xuất khẩu lao động để vơ vét tiếp, biến nhân kiếp lao động Việt thành lao nô, nô tỳ cho các quốc gia láng giềng thì chúng ta được gì? Mất gì? Hãy trả lời cho rành mạch là: Nếu không có các giá trị nhân bản của cộng hòa là tự do, công bằng, bác ái thì nhân kiếp Việt còn giữ được nhân phẩm Việt trước nhân vị Việt không? Nếu không có các giá trị nhân lý của dân chủ là đa nguyên trong nhân quyền nhân sinh Việt còn giữ được nhân trí Việt trước nhân tâm Việt không? Hãy chọn các câu trả lời hợp với Nhân tâm Việt trong một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; nhân từ Việt trong bầu ơi thương lấy bì cùng; nhân nghĩa Việt trong miếng khi đói bằng gói khi no. Mà các câu trả lời chỉnh lý trong toàn lý đã có mặt trong các chân trời của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền.
LÝ TRÍ TỈNH TÁO TRONG TRÍ TUỆ SÁNG SUỐT
Lý trí tỉnh táo làm nên trí tuệ sáng suốt, cả hai hợp lực để làm nên tuệ giác, sự giác ngộ của nhân tri, có cảnh giác của nhân trí về quyền làm người trong tự do, công bằng, bác ái. Liên minh của lý trí-trí tuệ-tuệ giác, không hề mơ hồ cũng không hề trừu tượng, cả ba có sức mạnh giúp ta nhận ra hai chuyện ngay trong đời sống. Hiểu được thì giải thích được, giải thích được thì xem như đã hiểu rồi, nơi mà hiểu biết và giải thích không phải là hai hành tác khác nhau, mà chỉ là một, một không gian và không có biên giới nên không cần trung gian để nối nhịp cầu giữa hiểu biết và giải thích. Hiểu được ngay thì giải thích được ngay, ngay trong quyền làm người của mình, tức là quyền được sống yên mà không là nạn nhân hay thủ phạm phản nhân quyền. Chính quyền làm người này đưa chúng ta tới quyền mưu cầu hạnh phúc, mà không một bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền nào được quyền tước đoạt.
NHÂN QUYỀN LÀ TỰ TRUYỆN VỀ MỨC ĐỘ LÀM NÊN TRÌNH ĐỘ
Quyền được làm người song lứa với luật bảo vệ người chính là chủ lực của tuệ giác. Khi nhận ra được hai mệnh đề trong cùng một mệnh để chung tên là nhân quyền. Thì nhân quyền vừa là cơ hội đối thoại giữa các dân tộc khác nhau, giữa các văn hóa và văn minh khác nhau có thể đối luận được với nhau qua quyền được làm người, luật bảo vệ người. Vừa là cơ hội tiến bộ của mọi dân tộc khác nhau, của mọi văn hóa và văn minh dù khác nhau, nhưng biết lấy nhân vị, nhân bản, nhân văn làm nội lực cho nhân quyền. Đây là hình ảnh của con người đi về phía cao của ánh sáng; đủ sức bước tới, bước lên, có tay trái cầm đèn soi đường, có tay phải cầm cán cân của công lý. Câu chuyện nhân quyền là tự truyện về mức độ làm nên trình độ, khi ta có bác ái với lòng trắc ẩn chia ngọt sẻ bùi với tha nhân, chia sẻ niềm đau nỗi khổ với đồng bào, với đồng loại thì chữ nhân của nhân loại sẽ có được tầm vóc cao, kích thước rộng, nội công mạnh, bản lĩnh lớn hơn hẳn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… Vì kẻ chỉ biết ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu thì có thể làm người nhưng chưa chắc đã được thành nhân. Vì nhân đây có gốc rễ, cội, nguồn của nhân tâm, nhân từ, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản làm nên sung lực trong lý luận rồi hùng lực ngay trong đấu vì nhân quyền. Tại đây, nhân quyết là không gian tri thức trong đó có chủ quyết để chủ động đấu tranh vì công bằng mà chống bất công, nên nhân quyền vừa là hành động của hiện tại, vừa là hoài bão của tương lai, vừa là quy trình đấu tranh hằng ngày, vừa là chân trời trước mắt.
Ý THỨC CỦA SÁNG KIẾN
Hệ sáng, đây là sung lực của thông minh, là cường lực của thông thái, để có sáng kiến tìm lối thoát ngu dân, để vượt thoát ngu dốt, rồi vượt thắng tà quyền chỉ biết lấy tuyên truyền một chiều để bịt mắt, bịt miệng, bịt tai nhân dân. Chính sáng kiến để cải tổ, cải cách dọn đường cho sáng chế, tức là những hành động phát minh cụ thể để thay đổi tức khắc đời sống đầy khuyết tật tới từ ngu dân hóa. Và, ý thức của sáng kiến kết hợp với hành động của sáng chế làm nên sáng tạo như sự thông minh được áp dụng vào thực tế để thay đời đổi kiếp vì biết diệt ngu dân. Chính phương trình sáng kiến-sáng lập-sáng tạo vừa là động cơ mà cũng vừa là bão táp quét chớp nhoáng mọi hệ lụy ra từ ngu dân, nơi mà tà quyền làm đui, què, câm, điếc nhân tính; làm xấu, tồi, tục, dở nhân tri. Hệ công, trong đó tà quyền chôn sống công bằng, thủ tiêu công lý để siết cổ cho tới ngộp công pháp; phương trình công bằng-công lý-công pháp là nền của công tâm để giữ lương tâm cho nhân loại luôn có nhân tri, là gốc của công minh để giữ lương tri cho nhân tính luôn có nhân trí. Sự kết hợp ở thế liên hoàn 5 hùng lực công bằng-công lý-công pháp-công minh–công tâm thường làm nên những trận đại hồng thủy mà không có một thành lũy tà quyền nào có thể đứng vững được.
TRI KIẾN BIẾT GIỮ VỮNG Ý THỨC
Tri kiến là tri thức thực được xây dựng bằng kiến thức thật, nó vừa có thể lực của chứng minh, vừa có trí lực của xác chứng, có tâm lực trong mọi chứng từ. Nó giải thích và lột mặt nạ chớp nhoáng mọi ý đồ ngu dân hóa của tà quyền qua thông tin, dữ kiện, chứng nhân…. Nên nó luôn mang theo trong sung lực của hiệu quả thực của giải phóng thật, tích cực thực của cách mạng thật, nó biết trần trụi hóa được tà quyền để phóng thích các nạn nhân của ngu dân. Khi tri kiến thành lý trí thì nó đã trở thành tư tưởng để con người kiểm định trong sáng suốt, kiểm tra trong tỉnh táo mọi hành động của mình, nơi đây tà quyền với trò ngu dân hóa của nó không có chỗ đứng lẫn chỗ ngồi trong tri kiến. Khi lý trí đúng được xây dựng bởi tri kiến thật, nó có khả năng dò xét tận tường các thông tin, phân định kỹ lưỡng vai trò của truyền thông để loại tuyên truyền một chiều kiểu lưỡi gỗ ra khỏi trí tuệ, để lý trí và trí kiến không bị ô nhiễm bởi ý đồ của tà quyền. Quan hệ giữa lý trí và não trạng rốt cuộc chỉ là một khi tri kiến và tuệ giác cùng nhau ngự trị để giữ vững ý thức luôn phải chỉnh lý qua tin tức chỉnh, qua truyền thông chỉnh, đây là quá trình kết hợp hài hòa lý trí-tri kiến-tuệ giác-ý thức để bảo đảm sự chỉnh lý trong mỗi hành động, để bảo trì cho mọi cá nhân, mọi tập thể, mọi cộng đồng sự hợp lý để sống cuộc sống đáng sống. Tri kiến mang bản lĩnh của tri thức, nội công của kiến thức, để bảo đảm từ phân tích tới quyết định, từ hành động tới phân xử, trong đó tri kiến luôn trực diện để đấu tranh trước mọi chính sách ngu dân hóa của tà quyền.
Giải Luận: Trí Thức (P10)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).