Giải Luận: Niềm Tin (P9)

SỰ CÔNG BẰNG GIỮA CÁC CHÍNH KIẾN
Tù nhân lương tâm, theo định nghĩa quốc tế, là những công dân một sớm một chiều thành tù nhân, vì họ có chính kiến hoặc chống lại, hoặc khác biệt với ý thức hệ, với chế độ đang cầm quyền không tôn trọng tự do ngôn luận. Như vậy, ý thức hệ độc tôn để độc tài, chế độ độc trị để độc quyền, mà trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc đảng để độc quyết chính là nguyên nhân cùng lúc là thủ phạm sinh ra, tạo ra, chế ra hiện tượng: tù nhân lương tâm! Hiện tượng tù nhân lương tâm không có trong các quốc gia tôn trọng văn minh của dân chủ, quý trọng văn hiến của nhân quyền, như vậy hiện tượng này chỉ có trong hiện tình của một quốc gia như Việt Nam hiện nay là độc đảng-toàn trị, trong đó hoàn toàn không có tam quyền phân lập, để có một nền tư pháp biết lấy công pháp dựa trên công lý để giải luận rõ ràng về sự công bằng giữa các chính kiến. Từ đây, mọi lý luận đều dẫn đến một lập luận là: bạo quyền độc đảng-toàn trị phải bỏ tù, mà không qua đối thoại để đối luận, thì bạo quyền này được nuôi dưỡng bởi: tà kiến! Chính tà kiến tới từ tà quyền được giáo dưỡng bởi bạo quyền độc đảng-toàn trị đã vạch ra tà lộ cho thượng tầng lãnh đạo bằng ngục lộ để dựng lên nhà tù, rồi đẩy các công dân yêu nước thương nòi, quý dân chủ, trọng nhân quyền vào vòng lao lý.
CHÍNH NGHĨA LÀM ĐẸP LƯƠNG TÂM
Khi lý luận, lập luận, giải luận xong thì cùng nhau tới một diễn luận là hiện tượng tù nhân lương tâm, có nguyên nhân của đấu tranh giữa hai thế lực chính kiến đúng chống tà kiến sai đang cầm quyền bằng cái ác! Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái độc! Chính kiến đẹp chống tà kiến xấu đang cầm quyền bằng cái dở! Chính kiến tốt chống tà kiến tục đang cầm quyền bằng cái bẩn! Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái hiểm! Hiện tượng: tù nhân lương tâm luôn là cuộc đấu trí giữa: lương tâm chống lại bạo quyền lãnh đạo; lương thiện chống lại tà quyền tham quan, lương tâm tri chống lại ma quyền tham quyền. Chính hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) làm nên định nghĩa, có định đề làm nền cho định luận của hiện tượng tù nhân lương tâm, tại đây tù nhân vì chính kiến của chính nghĩa đã làm đẹp cụm từ lương tâm, làm thăng hoa nhân cách của tù nhân, vì tù nhân chính là chủ thể của lương tri.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: TÙ VÌ Ý THỨC
Tù nhân lương tâm, bị một bạo quyền lãnh đạo mang tà lực của âm binh bỏ tù mình bởi mình có ý thức, thì đây là định nghĩa, định đề, định luận khác, cũng thật đẹp. Vì trong ngữ văn cũng như ngữ pháp cả hai ngữ vựng: lương tâm và ý thức đều đẹp vì cả hai đại diện cho đạo lý đúng, hay, tốt, lành để đối diện rồi trực diện trước cái phản đạo lý xấu, tồi, tục, dở đến từ cái phản luân lý thâm, độc, ác, hiểm trong cuộc sống. Định nghĩa thế nào là tù nhân lương tâm cần cả hai gốc, rễ, cội, nguồn của hai hệ: hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức). Tại đây, kiến thức xuất hiện để xóa vô tri, tri thức có mặt để loại vô minh, trí thức hiện diện để bứng vô nghĩa, ý thức ra đời để gạt đi vô cảm, nhận thức đứng lên để vùi vô tâm, làm nên tỉnh thức từ lương tâm tới lương tri. Tại đây, chọn lựa của các đứa con tin yêu của Việt tộc, vừa cõng hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), vừa bồng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) tạo nên một sung lực cho quần chúng, cho xã hội, sung lực đó chính là hùng lực của sự phản tỉnh.
SỰ PHẢN TỈNH LÀ SỰ TỈNH GIẤC CỦA ĐỒNG BÀO, CỦA DÂN TỘC
Sự phản tỉnh là khi tỉnh giấc của đồng bào, của dân tộc đã qua ác mộng của tà lộ được tà quyền vẽ ra qua ngu dân bằng tuyên truyền, qua áp chế, khủng bố, trù dập của một chế độ lấy công an trị để gieo cái sợ, dùng cái sợ để truy hủy sung lực của tỉnh thức, để truy diệt hùng lực của sự phản tỉnh. Hãy lý luận tiếp để lập luận thêm là bạo quyền lãnh đạo không sợ sự thật, nó chỉ sợ sự thức tỉnh. Tà quyền tham quan không sợ chân lý, nó chỉ sợ sự phản tỉnh. Ma quyền tham quyền, không sợ lẽ phải, nó chỉ sợ sự tỉnh giấc. Chính các tù nhân lương tâm đại diện cho cả ba: sự thức tỉnh trước bất công, sự phản tỉnh trước bất luân, sự tỉnh giấc trước bất nhân. Quá trình của lương thiện vừa là vốn của nhân phẩm, vừa là động cơ cho đấu tranh vì công bằng và dân chủ, để mở rộng chân trời của lương tâm biết dấn thân vì đời, vì người, với lương tri của nhân bản để có nhân vị xứng đáng cho nhân vị trong một chế độ độc đảng toàn trị. Chính trị là nạn nhân của chính sách xuất khẩu lao động, một sách lược khốn kiếp của lãnh đạo độc tài đã và đang vùi lấp nhân phẩm Việt, khi con dân Việt một sớm một chiều trở thành: lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.
HẰNG SỐ CỦA PHƯƠNG TRÌNH LƯƠNG THIỆN-LƯƠNG TÂM-LƯƠNG TRI
Tồi tệ như bọn lãnh đạo là tay chân của chúng là bọn làm môi giới, tha hồ vơ vét tiền hối lộ của các con dân Việt thất nghiệp đã túng quẫn tới đường cùng, lại phải chi tiền cho chúng mới được đi ra nước ngoài làm loại lao động rẻ tới tận cùng của mạt vận. Bọn lãnh đạo thì đầu cơ chính sách, bọn môi giới thì đầu nậu buôn người, chúng chính là loại ký sinh trùng bòn rút sinh lực đồng bào, một loại ký sinh đang nắm quyền, cầm quyền, và bám quyền để vơ vét cho tới ngày chúng bị mạt vận trong ma trận của chính chúng dựng lên. Hãy nhận diện các hằng số trong phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri từ đấu tranh cho công bằng xã hội tới chủ thể đấu tranh toàn diện trên mọi bất công xã hội: đấu tranh để bảo vệ các nạn nhân trong chính sách xuất khẩu lao động mà thực chất là thực hiện một chế độ nô lệ mới mà ai cũng có thể là nạn nhân, mà thân thể hiện đang mang thương tật trên đoạn đường làm nô lệ này. Từ đây, một chủ thể Việt vừa tiếp tục đấu tranh chống chính sách xuất khẩu lao nô, cùng lúc ủng hộ các phòng trào bảo vệ môi trường, trực diện với bạo quyền để đấu tranh chống ô nhiễm do Formosa gây ra.
BỌN BẠO QUYỀN LÃNH ĐẠO XẢO NGÔN TRONG ĐIẾM LỘ, CÙNG BỌN TÀ QUYỀN TƯ PHÁP GIAN NGHIỆP TRONG ĐIẾM PHẬN
Đứng cạnh, đứng kề cùng dân oan chống bọn tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, cả hai chúng chỉ biết tham tiền đang chủ trì ma sách nheo nhóc hóa Việt tộc. Phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri đấu tranh cho công bằng xã hội, ở bất cứ nơi nào có bất công, đi tới đấu tranh vì tự do, vì nhân quyền và dĩ nhiên vì dân chủ. Hãy nhận diện các chỉ báo mà các tù nhân lương tâm phải trả giá trước bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tư pháp, ma quyền công an. Tù nhân lương tâm, có mặt trên hai trận tuyến đấu tranh cho xã hội, một tại công đoàn, hai trong phong trào bảo vệ môi trường sau đại nạn ô nhiễm miền Trung do Formosa gây ra. Đấu tranh trên hai mặt trận của xã hội dân sự, thì đối với bạo quyền lãnh đạo đã là đa lý, vì tà quyền độc đảng rất sợ các chủ thể đa lý, vì họ đa tài, đa năng, đa hiệu và nhất là đa trí trong công cuộc đấu tranh vì công bằng và tự do. Trong lao tù tại nhà tù với điều kiện lao lý khắc nghiệt, để hủy diệt thể lực, hành hạ tù nhân lương tâm bằng những bản án dài, hành sát tù nhân lương tâm bằng điều kiện lao lý của loại địa ngục trần gian, nơi mà nhân quyền là chướng ngại vật luân lý mà bọn bạo quyền lãnh đạo xảo ngôn trong điếm lộ, cùng bọn tà quyền tư pháp gian nghiệp trong điếm phận.
CÁI ÁC CẶP KÈ CÙNG CÁI ĐỘC VÀ CÁI HIỂM
Trong cái ác của bạo quyền, trong cái thâm của tà quyền, trong cái độc của ma quyền là sự vô tâm của chúng đã «sản xuất» ra lương tri, khi chúng đưa những người lương thiện vào vòng lao lý, bị bắt, bị lãnh án tù bằng của các phiên tòa bất lương, vô nhân. Trong bản án kết tội, thì bọn quan tòa bất nhân của tòa án vô luân đã kết tội luôn có luận điệu: «chống đối những người đang thi hành công vụ!». Vu khống để vu cáo rồi vu họa lên kẻ lương thiện, đó là hành vi giờ đã thành phản xạ của tà quyền, mà sự thật có trong lương tâm của mỗi công dân Việt. Những năm tháng trong tù là cuộc tra tấn tàn bạo, dã man của những tên công an cai ngục, ngày ngày chúng đóng vai đồ tể để tra tấn bằng đòn thù trong ý đồ hành xác. Những đòn thù của tra tấn, luôn song hành bằng hành vi tồi tệ của âm binh âm giới nơi chỉ có cái ác xuất hiện ở dạng điếm nhục nhất. Những trận đòn chỉ để gây nội thương lâu dài, với các lời nhục mạ vô liêm sỉ, với những lời phỉ báng bất nhân nhất. Những ngày tháng trong tù đày là những ngày tháng bị tra tấn bằng đòn thù mà cũng là những ngày tháng bị lao động vất vả như một cực hình khác song hành cùng tra tấn. Bạo quyền không hề có tư duy để lý luận là khi tù đày song lứa cùng tra tấn rồi song đôi cùng lao động như nhục hình thì chính tại đây khi cái ác cặp kè cùng cái độc và cái hiểm.
ĐÁNH THỨC LƯƠNG TÂM CỦA QUẦN CHÚNG
Đánh thức lương tâm của quần chúng, trong xã hội, trong và ngoài nước mà bạo quyền lãnh đạo, tà quyền công an, ma quyền cai ngục không sao đoán hết được hậu quả một ngày kia sẽ tới với chúng! Là biểu tượng của lương tâm trong một chế độ bất lương, đã khủng bố, truy lùng các chủ thể yêu tự do, trọng dân chủ, quý nhân quyền; một chế độ đã biến xã hội là một nhà tù khổng lồ với bạo quyền lãnh đạo độc đảng có quyền sinh sát công dân Việt, ma quyền công an có quyền truy sát các chủ thể đấu tranh vì công bằng, tự do, dân chủ, nhân quyền. Đó chính là cuộc đời phải luôn dời chỗ ở, luôn tránh thoát các khủng bố, bắt bớ của bạo quyền và ma quyền này. Và trong điều kiện phải sống như vô hình ngay trên đất nước của mình đang bị quản thúc bởi âm binh công an. Chủ thể của lương tâm hoạt động không ngưng nghỉ từ báo chí tới mạng xã hội, đúng nghĩa chủ thể của trách nhiệm với đất nước, của bổn phận với đồng bào, còn phải là chủ thể của sáng tạo các đường lối đấu tranh, của tri thức nhìn xa trông rộng trước hiện tình của đất nước, với các tư duy sáng suốt mang lại những phương pháp cụ thể trong đấu tranh chính trị, xã hội, truyền thông nói lên chính nghĩa cốt lõi của mọi công dân yêu tự do, quý dân chủ, trọng nhân quyền.
MẪU SỐ CHUNG GIỮA CÁC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM
Hành động vì lương tâm và hành tác vì lương tri là biểu tượng của lòng khao khát công bằng, tự do, dân chủ cho Việt Nam. Cái thiếu công bằng, cái vắng tự do, cái mất dân chủ của Việt tộc hiện nay chính là cái bất hạnh dưới bạo quyền bất lương. Động cơ tranh đấu của các tù nhân lương tâm: nguyên nhân, lý do làm lên động lực của dấn thân vì đời, vì người. Phương pháp đấu tranh cụ thể trong môi trường xã hội cụ thể, địa phương hay toàn quốc, chính trị hay môi trường, luật pháp hay xã hội…. Khi có phân tích về hai chỉ báo này, thì phân loại hóa phải giải thích tiếp sự tương đồng và khác biệt giữa các tù nhân lương tâm, trong đó đồng thuận trên các tiêu chí và phạm trù đấu tranh sẽ giúp chúng ta tìm tới mẫu số chung giữa các tù nhân lương tâm, đây chính là sự đồng thuận như một định đề giải luận để định vị về động cơ tranh đấu cũng như phương pháp đấu tranh của các tù nhân lương tâm: đồng thuận xã hội: đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái; đồng thuận chính trị: đấu tranh cho dân chủ, đa nguyên, nhân quyền; đồng thuận đạo lý: đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tham quyền; đồng thuận giáo lý: đấu tranh cho giáo dục, giáo khoa, giáo án; đồng thuận tín ngưỡng: đấu tranh vì tự do tôn giáo, tín ngưỡng, niềm tin; đồng thuận cộng đồng: đấu tranh vì môi trường, môi sinh, thiên nhiên…. Chính các đồng thuận này làm nên nội công đạo lý và luân lý các tù nhân lương tâm.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: TRÁCH NHIỆM VỚI ĐẤT NƯỚC, BỔN PHẬN VỚI ĐỒNG BÀO
Nội lực của lương thiện chính là sung lực của lương tâm, là hùng lực của lương trí. Các tù nhân lương tâm không xem ai là tử thù, vì họ không xem ai là đối thủ của họ, họ không dùng con người làm đối phương, và trong nhận định cũng như trong định luận của họ thì: tử thù của các tù nhân lương tâm là hành vi phản dân hại nước, buôn dân bán nước, mại quốc cầu vinh. Đối thủ của các tù nhân lương tâm là hành động của tà quyền tham quan vì tham quyền để tham nhũng. Đối phương của các tù nhân lương tâm là thái độ mang voi dày mả tổ, rồi cõng rắn cắn gà nhà, trong bối cảnh thừa nước đục thả câu, với bất công của ma quyền là cốc mò cò ăn. Các tù nhân lương tâm thẳng lưng vì đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, thẳng bước vì luân lý có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào, nên họ không có tử thù!
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: VỐN GỐC CỦA NHẬN THỨC
Đơn phương độc mã chống lại bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, thì thường xuyên xem xét kỹ lưỡng vốn tri thức có trong vốn chính trị của mỗi chủ thể, vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm của mỗi cá thể. Các vốn sau đây được nhận ra trong lý lịch, trong hồ sơ, có ngay trong chân dung của các tù nhân lương tâm của Việt Nam: vốn lương thiện chống bất bình đẳng; vốn lương tâm chống bất công; vốn lương tri chống bất tài. Ba vốn này của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) là vốn nguồn để vạch mặt chỉ tên bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, nhưng nó chưa đủ để làm hành trang vững bền trong công cuộc đấu tranh trường kỳ. Vì bạo quyền sẽ dùng bạo lực, tà quyền sẽ dùng tà lực, ma quyền sẽ dùng ma lực không những qua tuyên truyền, tuyên giáo, mà bọn này còn biết dùng vu khống, vu cáo, vu họa để làm tổn thương thanh danh rồi tìm mọi cách để truy diệt các chủ thể của hệ lương này. Ở đây, xuất hiện một vốn gốc của hệ thức: lấy kiến thức chống tuyên truyền, lấy tri thức chống ngu dân, lấy trí thức chống độc tài, lấy ý thức chống độc tôn, lấy nhận thức chống độc quyền, lấy tỉnh thức chống độc trị.
CÁC TÍN HIỆU, CÁC CHỈ BÁO ĐỂ ĐƯA MA QUYỀN VÀO TỬ LỘ!
Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) giúp các chủ thể đấu tranh tiếp cận sự thật để chống bưng bít, chân lý để chống bịp bợm, lẽ phải để chống man trá của bọn bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, từ đây xuất hiện một vốn cội của hệ thông; sử dụng thông minh để xóa độc đoán của bạo quyền lãnh đạo; vận dụng thông thái để xua độc hại của tà quyền tham quan; tận dụng thông thạo để loại độc tham của ma quyền tham tiền. Từ vốn cội của hệ thông các chủ thể đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái bằng con đường của dân chủ, nhân quyền, đa nguyên, sẽ cho xuất hiện một vốn rễ của hệ sáng. Dùng sáng kiến để lập hành trình đưa dân tộc, đất nước ra khỏi bạo quyền. Dùng sáng tạo để lập hành trang đưa đồng bào, đồng loại ra khỏi tà quyền. Dùng sáng lập ra các phong trào xã hội đưa nhân quần ra khỏi ma quyền. Tất cả những vốn vừa được liệt kê cũng chính là các tín hiệu, các chỉ báo để đưa ma quyền vào tử lộ!
Giải Luận: Niềm Tin (P10)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s