TỈNH THỨC RỘNG, NHẬN THỨC SAU
Khi tổng hợp hai vốn làm nên nội công và bản lĩnh của các tù nhân lương tâm: vốn tri thức có trong vốn chính trị, vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm. Ta nhận ra hai vốn này có nguồn, gốc, cội, rễ, đã hiện diện trong nội lực làm nên sung lực để dấn thân, rồi hùng lực trong đấu tranh của các tù nhân lương tâm: vốn nguồn của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri); vốn gốc của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức); vốn cội của hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo); vốn rễ của hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng lập). Các phân tích này không hề trừu tượng, các giải thích trên không hề mơ hồ, chúng có trong lý lịch, hồ sơ làm nên chân dung của các tù nhân lương tâm. Ngay như những chủ thể không có học thức cao, nhưng họ có sự tỉnh thức rất rộng, nhờ có nhận thức rất sâu về bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: ĐỐI TRỌNG CỦA ĐỘC TRỊ?
Khi ta đi tìm sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, ta thấy xuất hiện hệ đối: đối kháng, chống bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị đang trùm phủ lên toàn xã hội, lên trọn số phận của Việt tộc. Rồi đối trọng, chống bất công trong xã hội, bất tài trong quản lý, bất nhân trong đạo lý, đã tạo ra đói nghèo trong dân chúng, lầm than trong xã hội. Bằng Đối lực, chống tham quan đang tham quyền để tham ô qua tham nhũng, làm nên tà lộ từ sâu dân mọt nước tới buôn dân bán nước. Nhận Đối diện, để trực diện mà chống mọi nguồn gốc của ngu dân, mà tội phạm là tuyên giáo nắm tuyên truyền, gây bao độc hại từ độc đoán của độc đảng. Và Đối đầu, để đấu trí chống bạo quyền là chống chế độ công an trị, chống tà quyền là chống bọn vi hiến và phạm pháp, tội phạm và tội đồ của Việt tộc.
HỆ HÀNH CỦA CÁC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM
Hành trang, luôn mang theo bốn vốn: lương tri, nhận thức, thông thái, sáng tạo, để vừa đấu tranh trực diện, vừa đấu tranh lâu dài với bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị. Hành trình, vừa có khó khăn qua lửa thử vàng, gian nan thử sức, vừa của thử thách bằng đầu sóng ngọn gió, trong thăng trầm với sóng cao nhưng vững tay chèo. Thậm chí có ngục tù, tra tấn, có cả truy diệt, thủ tiêu. Hành vi, vừa có kiên cường của sống lâu mới biết lòng người có nhân, vừa có đạo lý của tổ tiên, của dân tộc trong sống có nhân mười phần không khó, nơi mà cái khó không bó được cái khôn của các tù nhân lương tâm. Hành động, từ đề nghị vì tự do để có công bằng và bác ái tới quyết định dấn thân vì dân chủ và nhân quyền trong đa nguyên: hành động của đạo lý. Hành tác, mang hành động của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành tới quần chúng và xã hội để đánh thức mọi người, đây là hành tác của bổn phận trước đồng bào, trách nhiệm trước đất nước để làm nên luân lý yêu nước thương nòi như quý nhân sinh, trọng nhân tâm. Tại đây, sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh đã làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, thì sự thật-chân lý-lẽ phải đã được cõng, bồng, bế, ẵm bởi hệ hành của các tù nhân lương tâm!
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: CÔNG CHÚNG CỦA CÔNG BẰNG
Ai là tù nhân lương tâm? Họ các công dân là những con người có mong cầu được sống trong một chế độ tốt biết bảo quản cho một xã hội tốt, một định chế tốt biết bảo hành một cuộc sống tốt. Chính tính từ tốt đã làm nên định đề để định vị nhân quyền của con người là luôn muốn có một quan hệ tốt giữa họ và chính quyền. Và khi họ phải trực diện dùng tính mạng để dấn thân chống một chế độ xấu sản sinh ra một xã hội tồi, một định chế ác đã tạo ra một cuộc sống tục, thì họ có thể trở thành tù nhân lương tâm bất cứ lúc nào bởi bạo quyền cầm quyền. Nếu chính quyền xấu và ác đó bỏ tù họ, đẩy họ vào vòng lao lý thì chính quyền đó không những xấu, tồi, tục, dở mà nó còn thâm, độc, ác, hiểm đã dùng bạo lực để truy sát những cái hay, đẹp, tốt, lành đã có trong tính lương thiện, làm nên lương tâm, dựng lên lương tri của họ.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: LẬP QUYỀN TỰ QUYẾT
Quá trình nhận thức của một công dân trước bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đã liên minh với nhau thành một tổng thể để vơ vét tài nguyên đất nước, trấn lột tiền bạc của đồng bào. Tại đây, quá trình đấu tranh cũng được xây dựng như một tổng thể mà nhận thức là hạ nguồn, mà thượng nguồn là kiến thức tới từ thực trạng xấu của một xã hội đang bị đồi bại hóa bởi bạo quyền độc đảng. Khi kiến thức được xếp đặt thành tri thức để biết về một dân tộc đang bị âm binh hóa bởi tà quyền tham quan làm giàu bằng tham ô và tham nhũng. Sự xuất hiện của ý thức khi khám phá ra một ma quyền tham tiền khi tham đất thì phá nhà để cướp đất, biến dân lành thành dân oan, giờ đây đã định hình thành nhận thức. Mà nhận thức chính là sự tỉnh thức trước bất công của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, đã làm nên sự cảnh tỉnh trước các hiểm họa đang đe dọa một đất nước, một dân tộc, một tiền đồ, một đạo đức quốc gia. Họ muốn Việt tộc phải có quyền tự quyết, ra khỏi cái nhà tù vô hình đang trùm phủ lên số phận của cả một đất nước, đang vùi lấp ngay trên tương lai của của cả một dân tộc.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: CHỐNG BẠO QUYỀN ĐỘC ĐẢNG
Thế nào là lương tâm? Và ai là tù nhân lương tâm? Hãy đi từ đời sống xã hội có công bằng hay đang chịu bất công, trong hiện trạng của Việt Nam, thì chính bạo quyền độc đảng là nguồn gốc của mọi bất công từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới nghề nghiệp, từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng tới dân tộc. Tại đây, sự phân biệt trong đảng và ngoài đảng, là nguồn cơn sâu xa của một hệ thống bất công và rất bất nhân. Rồi tới sinh hoạt xã hội, trong đó những kẻ được xem là trong đảng, tức là được ĐCSVN bảo hộ rồi bảo kê thì được vào «đúng quy trình» của tham quyền để thành tham quan, rồi lấy tham ô mà tham nhũng, và thảnh thơi trong tham tiền trong vi hiến và phi pháp, mà công lý của pháp quyền luôn bị vùi dập. Để tới là quan hệ xã hội của thảm kịch Việt nay hiện nay là hối lộ để mua chức bán quyền của loài ký sinh trùng hút máu chính đồng bào của mình để vinh thân phì gia. Đa số này đã trở thành bọn sâu dân mọt nước, thừa nước đục (độc đảng) để thả câu mưu lợi vì tư lợi của chúng. Hiện nay đời sống xã hội đã và đang bị bạo động hóa bởi bạo quyền độc đảng với hành vi xấu, tồi, tục, dở; khi sinh hoạt xã hội đã và đang bị đồi trụy hóa bởi tà quyền tham quan với hành tác trộm, cắp, cướp, giật, khi quan hệ xã hội với đã và đang bị âm binh hóa bởi ma quyền.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: THÀNH NGƯỜI TRONG GIÁO DỤC
Các tù nhân lương tâm sẽ ngày càng nhiều nếu bạo quyền độc đảng còn cầm quyền, tà quyền tham quan còn giữ quyền, ma quyền tham tiền còn có quyền, khi chúng tiếp tục vùi dập nhân tâm, truy diệt nhân bản, ám sát nhân quyền. Các tù nhân lương tâm chính là công pháp vì công chúng để vạch mặt chỉ tên bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang trù ếm nhân phẩm của Việt tộc. Tại đây, lương tâm là gì? Là những người đã thành người trong giáo dục: mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền đều được hưởng thành công trong giáo dục, nơi mà kiến thức giúp sự trưởng thành về nhân cách luôn song hành cùng tri thức của khoa học nơi mà sự thật của khoa học làm nên chân lý của nhân sinh. Thảm trạng của Việt Nam hiện nay là cái giả đã ngự trị để giết cái thật với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Khi sự bất công đã có mặt ngay trên thượng nguồn khi học làm người, tức là ngay tại học đường, với mua bằng bán cấp, chính nó đã đánh thức tính lương thiện, đã làm tỉnh thức lương tâm, để lương tri để một công dân đi vào cuộc dấn thân vì giáo dục, giáo lý, giáo luận.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: BẢO VỆ THÀNH QUẢ CỦA ĐỒNG BÀO
Các tù nhân lương tâm là ai? Họ chính là những chủ thể đấu tranh đang chống lại bạo quyền, tà quyền, ma quyền đã trộm, cặp, cướp giật đi các thành quả của họ và của đồng bào họ là thành tài trong nghề nghiệp: mọi công dân khi rời trường lớp, rời một hệ thống giáo dục để làm người trưởng thành như một chủ thể có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với tổ quốc, có lương tâm tốt để phục vụ tốt cho nghề nghiệp mà chính họ có tự do chọn lựa. Thảm họa của xã hội Việt hiện nay là mua chức bán quyền để vinh thân phì gia, nơi mà nhất nghệ tinh nhất thân vinh không chỗ đứng ghế ngồi, mà phải nhường chỗ cho hoạn bịnh của chế độ độc đảng giữ độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong quản lý, bằng ung thư do chính nó tạo ra: tiền tệ-quan hệ-hậu duệ để diệt trí tuệ của nghề lẫn nghệ của tất cả ai yêu nghề, trọng nghệ để có một nghiệp tốt.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: BẢO VỆ VỐN LIẾNG CỦA ĐỒNG BÀO
Các tù nhân lương tâm là ai? Họ chính là những chủ thể đấu tranh đang chống lại bạo quyền, tà quyền, ma quyền đã trộm, cặp, cướp giật đi các thành quả của họ và của đồng bào họ là thành công trong kinh tế: mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền biết bảo vệ nhân quyền đều phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để chuyện thành người trong học đường và thành công trong nghề nghiệp cụ thể trở nên thành công trong kinh tế, với đời sống vật chất vững, với vốn liếng tài chính bền. Sự bền vững của một cuộc sống kinh tế có thăng tiến là chỉ báo rành mạch của một xã hội có chính quyền liêm chính, có chính phủ liêm sỉ, vì có chính sách lãnh đạo liêm minh. Nơi đây, tà quyền tham quan không có chỗ đứng, tại đây ma quyền tham tiền không có ghế ngồi, mà chỗ đứng ghế ngồi của chúng là các tòa án của lương tâm mà từ chứng nhân tới với chứng từ được công bố bởi chính các tù nhân lương tâm đã là nạn nhân của chúng. Thành tựu trong xã hội: mọi công dân trong một quốc gia có văn minh vì trọng dân chủ, một xã hội có văn hiến vì yêu nhân quyền khi đã thành người trong giáo dục, thành tài trong nghề nghiệp, thành công trong kinh tế sẽ được công nhận bằng thành tựu trong xã hội, nơi mà những chặn đường hay, đẹp, tốt, lành của một định chế sẽ tạo dựng được thành quả của cả một đời người.
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: THẤU ĐÁO ĐẠO LÝ TỔ TIÊN VIỆT
Các tù nhân lương tâm là ai? Là các chủ thể nhận bổn phận với dân tộc, lãnh trách nhiệm với tổ quốc để lập nên phương trình đôi để đấu tranh bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Các tù nhân lương tâm bảo vệ phương trình thứ nhất của thượng nguồn nhân bản: lương thiện-lương tâm-lương tri, có trong nhân tính Việt, có trong nhân lý Việt. Các tù nhân lương tâm bảo vệ phương trình thứ nhì của hạ nguồn nhân vị: công bằng-công lý-công pháp, có trong nhân nghĩa Việt, có trong nhân tri Việt. Sự liên kết từ thượng nguồn tới hạ nguồn làm nên sự liên minh trong dấn thân, trong đấu tranh qua một phương trình đôi để khẳng định nội công, bản lĩnh và tầm vóc của các tù nhân lương tâm. Phương trình đầu tiên của hệ hành: lấy hành vi lương thiện làm nên sự tỉnh thức của lương tâm, lấy định vị của lương tâm làm nên ảnh hưởng của lương tri trong quần chúng, trong xã hội. Phương trình tiếp theo của hệ kháng: lấy đối kháng để trực diện với bạo quyền độc đảng phản dân chủ, với đối luận để đối đầu với tà quyền tham quan phản công bằng, với đối trọng chống ma quyền tham tiền phản đạo đức dân tộc. Các tù nhân lương tâm là ai? Họ là những công dân Việt đã hiểu, đã thấu đạo lý tổ tiên Việt: Cây ngay không sợ chết đứng!
TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM: ĐỊA DANH CỦA NƯỚC MẮT
Tù nhân lương tâm không phải là tù nhân hình sự, chẳng phải là tội nhân phạm pháp, họ ngược lại với tập đoàn tội phạm lãnh đạo, với bè lũ tà quyền đã bán lương tâm cho ma quyền tham tiền. Vì tù nhân lương tâm đã thực hiện được, đã thể hiện được một nhân lý lồng trong nhân tính, một nhân trí lồng trong nhân tri là họ đã: đứng về phía nước mắt! (nước mắt của nạn nhân). Một nhân sinh quan, một thế giới quan trung tâm ngay trong địa lý, địa dư, địa phận, địa danh của nước mắt, một chuyện mà không sao bạo quyền, tà quyền, ma quyền làm được, vì chúng chính là tác giả và tác nhân rất bất nhân đã làm ra: nước mắt! Nhà tù của bạo quyền độc đảng đã dùng tà quyền tư pháp làm công cụ để hủy diệt một công dân chỉ muốn nói lên tiếng nói của công chúng, đòi công lý cho các nạn nhân của chế độ bạo tà này. Nguyên nhân sâu xa trên thượng nguồn là sự uất ức đã biến thành lòng quả cảm trước tội ác của bọn tà quyền lãnh đạo với chế độ âm binh toàn trị của chúng đang trùm phủ lên số phận của dân tộc.
MỘT THẢM SỬ ĐANG VÂY VIỆT TỘC
Sử học được xây dựng trên sử liệu mang sử kiện trong không gian lịch sử với định điểm của thời gian. Trong trường hợp của Việt tộc luôn có Việt tính kiên cường để bảo vệ chủ quyền và độc lập, thì Việt tính được hiểu và được soi như một hằng số, thì đây là sử tính. Có khi hằng số thuận với sử tính lập đi lập lại qua kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc, có khi nó lại là hằng số ngược của Việt tộc, đã nhiều lần mất nước vì bọn bán nước, vì chúng mại quốc cầu vinh. Việt tộc có Ngô Quyền đứng lên như bão tố, một sớm một chiều quét sạch một ngàn năm Bắc thuộc, nhưng Việt tộc cũng có những đứa con mại quốc cầu vinh, trước khi bán nước chúng là bọn sâu dân mọt nước bằng tham ô, tham nhũng, từ bòn rút tài nguyên của đất nước tới vơ vét tiền tài của dân tộc. Từ sâu dân mọt nước, chúng dễ dàng sa lầy vào tà lộ của phản dân hại nước, chỉ đi thêm môt bước nữa là chúng buôn dân bán nước, mang voi về giày mả tổ để rồi là cõng rắn cắn gà nhà, có mặt ở cấp cao nhất của tập đoàn lãnh đạo hiện nay, một bi sử đang chực Việt tộc, một thảm sử đang vây Việt tộc.
HẰNG SỐ THUẬN CỦA LÒNG YÊU NƯỚC
Hằng số thuận của lòng yêu nước có trong Việt tính kiên cường để bảo vệ chủ quyền và độc lập, luôn phải song hành và phải đề phòng, phải cảnh giác với hằng số ngược là bọn mại quốc cầu vinh, sâu dân mọt nước, phản dân hại nước, buôn dân bán nước. Giữa hằng số thuận yêu nước và hằng số ngược phản quốc, chúng ta có hằng số hệ lương, với nền lương thiện biết dựng thẳng lên lương tâm với lương tri sắc nhọn để tố cáo tà quyền buôn dân, để tố cáo ma quyền bán nước. Việt sử không thiếu các chủ thể liêm chính như Chu Văn An, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… biết vạch mặt chỉ tên bọn tham quan chỉ tham tiền mà quên đi tiền đồ của tổ tiên, cơ đồ của dân tộc. Hằng số hệ lương hiện đại chính là các tù nhân lương tâm hiện nay, tuệ giác của Việt tính, các đứa con tin yêu của Việt tộc, các hậu duệ chính thống từ tinh thần tới luân lý của Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…. Sử tính là sự thông minh tới từ nhân trí của con người biết, hiểu, thấu lịch sử và không muốn lặp lại các sai lầm của quá khứ, của đời xưa. Như vậy, sử tính là tính sáng tạo ra lịch sử trong hiện tại vì tương lai, nhất quyết không lập lại các sai sót, sai lạc, sai lầm đã có trong lịch sử thủa nào. Từ đây, trong nhân loại xuất hiện các chủ thể đấu tranh cho tự do, dấn thân vì công bằng, lấy nhân quyền để bảo vệ nhân phẩm, có trách nhiệm với nhân bản, có bổn phận với nhân đạo, dấn bước vì nhân tâm.
NHẬN THỨC NHÂN QUYỀN
Khi ta tổng kết được lịch sử của nhân quyền, ta sẽ nhận ra quá trình tiến bộ của nhận thức nhân quyền đi từ một quan niệm chính đáng về tiến bộ vì quyền làm người, trong đó nguyên tắc của nhân quyền là nền tảng cho mọi tổ chức xã hội muốn có văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền. Nhận thức nhân quyền đi từ tính phổ quát về quyền làm người tới quy luật bảo vệ tự do cá nhân như tự do căn bản nhất, để nhận ra bản chất của một tập thể, một cộng đồng, một chế độ về cách hành xử biết tôn trọng nhân quyền của của cá nhân này. Nhận thức nhân quyền đi từ tổ chức xã hội có công bằng được bảo vệ bằng công lý tới một chính quyền tôn trọng nhân quyền để trong một chế độ dân chủ với nhân sinh quan tử tế vì nhân quyền từ gia đình tới dân tộc, từ văn hóa tới giáo dục, từ kinh tế tới thương mại… để bảo đảm một thế giới quan đứng đắn từ quan hệ quốc tế tới hợp tác quốc tế, trong đó nhân quyền là nền tảng mà cũng là động cơ.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).