KHÔNG AI MUỐN SỐNG CHUNG VỚI KẺ XÂM LƯỢC
Kẻ xâm lược không những phải “lo ra” trước các đồng minh mới văn minh hơn nó của nạn nhân, mà nó “càng sống càng lo” trước công pháp quốc tế ngày càng công bằng, không chấp nhận mãi cảnh “cá lớn nuốt cá bé”, chỉ vì quy luật man rợ này không phải là pháp luật công minh. Công pháp quốc tế văn minh hiện nay yêu quý dân chủ, trân trọng nhân quyền. Đây chính là lối thoát của Việt Nam hiện nay, trên con đường tìm tới sự thông minh tôn trọng lẫn nhau từ trong ra ngoài không gian của Liên Hiệp Quốc. Kẻ xâm lược biết rất rõ, hiểu rất kỹ là “không ai muốn sống chung với nó” để bị nó “đè đầu, đè cổ”, cụ thể là ai cũng muốn “xa Tàu”, “tránh Tàu” (mà ông bà ta có khi nói nhanh là như “tránh tà”), còn ta trong lịch sự ngoại giao thì phải nói cho rõ là muốn: “thoát Trung”. Kẻ xâm lược thấu rất rành cái khác biệt giữa các đạo lý của mỗi dân tộc, tạo nên không những nhân sinh quan, mà cả thế giới quan và vũ trụ quan của mỗi nền văn hóa, của mỗi gốc giáo dục cộng đồng. Đây là câu chuyện rất cụ thể giữa Tàu và Ta, vì hai đạo lý sống của hai dân tộc rất khác nhau, đối với Tàu là “bình thiên hạ” nhưng thực chất là “nuốt thiên hạ”; còn đạo lý tổ tiên ta là phải“biết người biết ta” để biết “ăn ở có hậu” vì hiểu được thế nào là“thương người như thể thương thân”.
LÒNG YÊU NƯỚC: NỔI LO CỦA KẺ XÂM LƯỢC
Kẻ xâm lược nghĩ rất sâu về lòng yêu đất nước, tình yêu quê hương của nạn nhân, ngay cả trong tâm tư của các lãnh đạo đã có lần “lầm đường, lạc lối” trong ma đạo mà tạm thời cam tâm “bán nước”, nhưng họ có thế trở về với dân tộc họ, đồng bào họ bất cứ lúc nào. Kẻ xâm lược thường “bất an”, và “ăn ngủ thất thường” vì hệ nổi (nổi lên, nổi loạn, nổi dậy) của dân tộc đang là nạn nhân trực tiếp của chúng, hệ nổi luôn kéo theo hệ bật (bật lên, bật mồi, bật lửa) với tinh thần bất khuất không để mất quê hương và không muốn làm nô lệ. Đây là hằng số trong bản sắc Việt yêu độc lập dân tộc như yêu chính nhân phẩm của mình. Kẻ xâm lược thường “ngày đêm lo lắng” về biến chuyển của thế giới trong toàn cầu hóa hiện nay, lấy công bằng làm công pháp, lấy nhân trí làm nhân lý, không để chuyện “có tiền mua tiên cũng được” đè lấp nhân phẩm, nhân tri. Bọn tham nhũng sẵn sàng bán nước cứ tưởng cái gì trên đời này cũng có thể mua được bằng tiền, thì chúng sẽ thấy chuyện nhãn tiền là cầm tiền tham ô trên tay rồi mà “vẫn nuốt không trôi”, vì công lý của công pháp rất hiện hành!
KHUYẾT TẬT CỦA KẺ XÂM LƯỢC
Kẻ xâm lược luôn tìm “thuốc an thần” trước các làn sóng tôn vinh dân chủ để bảo vệ nhân quyền, luôn dựa trên hệ đa (đa tài, đa năng, đa hiều, đa trí) có gốc, rễ, cội, nguồn trong đa nguyên đang đi mạnh tới để kết liễu tính xâm lược mọi rợ của nó, và truy diệt nó ngay trên đất Trung Hoa của nó với dân tộc Hoa có thông minh, vì là con cháu của Mạnh Tử: “biết đục thủng thuyền khi kẻ lãnh đạo cầm lái bạo ngược và độc ác!”. Kẻ xâm lược luôn dùng xảo thuật khống chế giấu sự thật về nó: không cho nạn nhân biết hết sự thật về khuyết điểm, khuyết tật của mình, nó tránh nói câu “nhân bất thập toàn”, nó tránh tuyệt đối nói “Thưa ông! Tôi ở bụi này”, nó tránh trong tuyệt mật về sự thật “lòng tham không đáy” của nó. Nó lo lắng là nạn nhân của nó đã là kẻ “đi guốc trong bụng của nó”, vì cũng khôn lanh như nó. Kẻ xâm lược luôn sống với tâm lý đi tra hỏi trong đối thoại, hạch hỏi trong đàm phán, tra khảo trong đàm đạo với nạn nhân về hệ thuần (thuần phục, thuần hóa, thuần tuân) của nạn nhân, cùng lúc biết rất rõ là nạn nhận không bao giờ muốn rơi vào hệ độc (độc chủ, độc tôn, độc quyền) để chịu làm nô lệ vĩnh viễn.
HÀNH TÁC CỰC TRỊ CỦA KẺ XÂM LƯỢC
Khi nghiên cứu để phân tích tâm lý kẻ khống chế, cụ thể là về nỗi lo, nỗi sợ của kẻ xâm lược, thì không thể không tìm hiểu về tà dạng của bọn bán nước để thấu rõ tại sao lại có “cặp bài trùng cướp nước-bán nước”. Hãy nhập nội vào không gian và thời gian của loại “cặp bài trùng cướp nước-bán nước” này qua hành tác thống trị trong đó kẻ xâm lược có ba loại vốn chính để biến thành chục, thành trăm loại vốn khống chế khác, để ức chế nạn nhân của chúng vốn nổi: kinh tế, tài chính, vật chất; vốn áp đảo: chính trị, ngoại giao, quân đội; vốn lan tỏa: văn hóa, xã hội, giáo dục. Đừng quên hành tác kiềm hãm qua áp chế để áp đảo: áp đặt từ trên cao ép xuống, trùm phủ toàn bộ đời sống xã hội, bao lấp mọi quan hệ xã hội. Cũng không quên hành tác bất bình đẳng dùng khống chế để xâm lược: kẻ khống chế từ chối quan hệ ngang hàng để tránh đối thoại trực diện, kẻ khống chế áp chế quan hệ vừa cao, vừa chéo để kiểm tra nạn nhân, kẻ khống chế áp đặt quan hệ qua sức mạnh đơn phương của nó.
CÁC CHỈ BÁO ĐỂ NHẬN DIỆN BỌN BÁN NƯỚC
Chúng sợ Tàu và mở cửa cho Tàu vào đất Việt như chốn không người. Chúng sợ Tàu và luôn tổ chức các đặc quyền, đặc lợi, đặc khu cho Tàu. Chúng theo Tàu và giấu mặt nhưng luôn tạo ra các chính sách nhượng bộ Tàu. Chúng theo Tàu và luôn qua lại với Tàu để ký các hợp tác lấy Tàu làm chủ, cho Tàu đóng vai chính trong kịch bản của thỏa ước. Chúng cần Tàu để được yên và tạo điều kiện cho chúng tự tham quyền qua tham nhũng. Chúng cần Tàu để ủng hộ chúng trong các cuộc thanh trừng nội bộ, để diệt những ai chống chúng và chống Tàu. Chúng tuân lịnh Tàu để «vinh thân phì gia» để được yên thân trong cuộc đời «sâu dân mọt nước» của chúng. Chúng tuân lịnh Tàu để giữ tất cả các ưu đãi, ưu tiên, để chúng được ưu hậu, bỏ chạy theo chủ Tầu, khi Việt tộc nổi lên lật đổ chúng. Chúng đi nước đôi: có tiền của nhờ Tàu và nhờ tham quyền-tham ô-tham nhũng. Chúng chạy nước đôi: chuyển tiền của ra ngoại quốc, rồi đưa gia đình và con cái ra trước nước ngoài, để dễ nhanh «cao bay xa chạy» khi Việt tộc vùng lên lấy lại độc lập cho nhân phẩm của họ.
ĐẠO LÝ VIỆT VÀ BẢN SẮC VIỆT LÀ NHÂN PHẨM VIỆT
Đạo lý hay, đẹp, tốt, lành là đúng nhưng phải hiểu tâm địa của Tầu để cái đúng trở thành cái thông minh: ta muốn “dĩ hòa vi quý” nhưng không muốn “dĩ hòa vi nhục”; ta mong “một điều nhịn chín điều lành” nhưng ta cũng biết “đánh trận đầu cho xác xơ ngạc, đánh trận sau cho tan tác chim muông”. Ta hiểu”tránh voi có xấu mặt nào” nhưng ta cũng biết tát vào mặt voi khi nó đe dọa dân tộc ta; chọc thủng mắt nó khi nó hăm he dòm ngó để xâm lăng đất nước ta; chặt chân nó khi nó tính chuyện dày xéo quê cha đất tổ của ta. Chúng ta biết “ngoại giao kiểu đu dây”, nhưng chúng ta không cho Tàu đu dây trên đầu chúng ta; còn bọn suốt ngày “cúi đầu đu dây” mà câm họng khi nó chiếm biển đảo của ta, im miệng khi nó lấy đất của ta ngay biên giới phía Bắc, chúng đừng lãnh đạo nữa, vì chúng còn thì còn các mật nghị Thành Đô khác sẽ ra đời. Tàu ngày ngày giết ngư dân ta, mà ĐSCVN lại «ngụy ngôn» là: tầu lạ, kẻ lạ…. Thật khốn kiếp cho Việt tộc! Chúng ta hãy sẵn sàng đạp cho té bất cứ ai đang đu dây trên đầu Việt tộc. Thấy tới nơi để hiểu tới chốn Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại để biết phải làm gì: mỗi chuyện trên đời đều có cái giá của nó, mà cái vô giá là toàn vẹn lãnh thổ luôn song hành cùng độc lập dân tộc, trong đó nhân Việt là nhân tính Việt, nhân phẩm Việt, còn cái giá vô danh giá là cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối: đó là cái giá của điếm nhục hóa.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).