TỔNG THỂ CỦA MỘT, CỦA NHẤT, CỦA ĐỒNG LÀM NÊN CHỦ THỂ
Tổng thể của một, của nhất, của đồng làm nên chủ thể yêu nước thương nòi, chủ thể không còn là những cá nhân đơn lẻ, cũng không còn là các công dân đơn độc, mà là chủ thể của toàn vẹn lãnh thổ, của độc lập dân tộc làm nên nhân phẩm Việt, bất khuất giữ nước-cứu nước cho bằng được. Hãy định nghĩa rõ ràng thế nào là chủ thể yêu nước thương nòi? Một chủ thể biết trách nhiệm, hiểu bổn phận công dân, và nhất là biết sử dụng các kinh nghiệm thắng giặc của tổ tiên; mà cũng biết tránh được các thất bại của cha ông trong lịch sử, để sáng tạo ra các chiến lược mới, các sách lược mới mà thắng kẻ xâm lược đang đứng trước mắt ta là ĐCSTQ-Đảng cộng sản Trung Quốc đang mượn «con đường cộng sản anh em» để thao túng, để giật dây, để gài bẫy ĐCSVN-Đảng cộng sản Việt Nam, để thực hiện hệ xâm: xâm lấn rồi xâm chiếm, xâm lược rồi xâm lăng Việt Nam. Câu chuyện chủ thể yêu nước thương nòi mang tầm tiên quyết trong quyết tâm cứu nước của mỗi chúng ta, vì chỉ chủ thể yêu nước thương nòi mới thật sự là chủ thể với đạo lý của trách nhiệm giữ nước, với luân lý của bổn phận cứu nước, vì bọn tà quyền phản dân hại nước không phải là chủ thể, vì bọn ma quyền buôn dân bán nước không phải là chủ thể, chúng chỉ là tiểu nhân, chúng đã mất nhân vị Việt vì chính vị kỷ của chúng! Chủ thể yêu nước thương nòi chính là chủ thể của toàn thể đất nước, vì chủ thể yêu nước thương nòi chỉ chấp nhận toàn vẹn lãnh thổ.
TOÁN HỌC VIỆT: MỘT DUYÊN, HAI NỢ, BA TÌNH
Chính lương tri của chủ thể yêu nước thương nòi làm rễ sâu, gốc chắc cho nhân phẩm Việt, để bảo đảm bản sắc Việt, để bảo trì văn hóa Việt, nơi mà nhân phẩm Việt của toàn vẹn lãnh thổ gạt ra được các tiểu nhân ích kỷ, lùa xa được các cá nhân vô cảm, xua đi được các bè phải vô luân chỉ muốn đi lại con đường bán nước của Lê Chiêu Thống. Yêu nước thương nòi thực sự là một là một cơ duyên tạo nên thâm tình của một người Việt khắng khít với quê hương và đồng bào của mình quy luật toán học Việt: một duyên, hai nợ, ba tình, nơi mà chữ duyên là kết quả mầu nhiệm làm nên hạnh ngộ, nó không phải bị bắt buộc phải yêu nước, bị bó buộc phải thương nòi. Nơi mà người Việt yêu nước thương nòi sẽ có một hạnh phúc lớn khi đã có hạnh ngộ với đồng bào, với đất nước của mình. Cái duyên làm nên cái nợ muốn «trao thân gởi phận» nơi đất Việt, để được «ăn đời ở kiếp» nơi chốn Việt, vì «nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây», tự bao giờ đã làm nên cái tình của «tình sâu nghĩa nặng». Người yêu nước thương nòi có tâm hồn luôn đẹp hơn kẻ vô tâm «ai chết mặc ai», hơn kẻ vô cảm «bây chết mặc bây»; một tâm hồn đẹp vì biết kham đất nước, dân tộc, biết chia sẻ, tức là biết bồng, cõng, gánh, đội những thăng trầm mà đất nước đang phải chịu, những trầm luân mà đồng bào phải nhận. Động từ kham không hề là khổ luỵ, không phải là nhục hình, mà chỉ là chấp nhận có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với tổ quốc. Kham để chia sẻ tới nơi tới chốn nỗi khổ của quê hương, niềm đau của dân tộc.
TÂM HỒN VIỆT ĐẸP VÌ NHÂN NGHĨA VIỆT SÂU
Tâm hồn đẹp của người yêu nước thương nòi, tới từ nhân nghĩa Việt sâu trong «tình làng nghĩa nước», tới từ nhân từ Việt rộng trong «một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ», tới từ nhân tâm Việt cao «bầu ơi thương lấy bí cùng». Tất cả tạo nên giá trị hay, đẹp, tốt, lành của tâm hồn Việt luôn yêu nước thương nòi, luôn có hai phẩm chất: chung và chia, mà các cá thể của tà quyền bán nước, ma quyền buôn dân không sao có được. Biết bảo vệ các tài sản chung của tổ tiên để lại, biết bảo quản môi sinh chung, nâng niu môi trường chung vì đó là đất Mẹ. Bọn cầm quyền buôn dân, bọn lãnh đạo bán nước rồi thì chỉ có chạy theo chủ Tàu tặc xâm lược, hoặc cúi đầu trong lủi nhủi chạy qua phương Tây, với tiền của đã vơ vét của đồng bào, chúng không hề tính chuyện sống chung với đồng bào thì làm sao chúng biết chia với đồng loại. Ngược lại, tâm hồn Việt đẹp yêu nước thương nòi, vì nhân nghĩa Việt sâu, sâu vì biết chung, biết chia.
HẰNG TRIỆU NGƯỜI VÔ GIA CƯ
Nếu một dân tộc 100 triệu dân, mà có hằng triệu người vô gia cư, thì dân tộc đó đã phải nhận một phần lớn số phận màn trời chiếu đất. Nếu một giống nòi có 100 triệu con dân, mà có hằng triệu người vô gia cư, thì giống nòi đó đã phải nhận một phần lớn nhân kiếp đầu đường xó chợ. Nếu ra đường, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình không có mái ấm che thân, khi công dân này sẽ nhận ra nhân phẩm của các đồng bào vô gia cư đã mất rồi! Thì chính lúc đó công dân đang có mái ấm che thân phải nhận ra luôn là chính nhân phẩm của mình đang bị xúc phạm. Nếu ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình mất đất mất nhà, công dân này sẽ nhận ra nhân vị của các đồng bào vô gia cư không còn nữa! Thì chính lúc đó công dân này đang có đất có nhà cũng phải nhận ra luôn là chính nhân vị của mình cũng đang bị mất, và sẽ bị mất bất cứ lúc nào bởi bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Nếu trên đường ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình đang bụi thân trong bùn kiếp, mà trước đó họ là dân lành, dân đen đã bị bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền biến thành dân oan, dân bụi; họ đã bị cướp nhân quyền rồi! Thì chính công dân đó phải nhận ra là chính nhân quyền của mình cũng sẽ bị cướp. Vì khi một dân tộc để bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền chỉ biết trộm, cắp, cướp, giật, rồi quyết định nhân kiếp của mình thì dân tộc đó phải nhận kiếp nạn nhân: không nhân phẩm, không nhân vị, không nhân quyền….
BẠO QUYỀN CÙNG TÀ QUYỀN VÔ CƯ HÓA DÂN TỘC
Những đồng bào hiện nay đang vô gia cư, sống đầu đường xó chợ, ngủ với màn trời chiếu đất, họ đang lưu vong trong nhục hình ngay trên quê hương họ, họ mang thân du mục tủi nhục ngay trên đất nước họ, họ mang kiếp nô lệ với những tên chủ vô hình đã loại bỏ họ ra khỏi cuộc sống bình thường, đã gạt phăng họ ra hẳn nhân sinh bình an. Những tên chủ tưởng là vô hình không trừu tượng, không lý thuyết, không viễn vông, nhưng chúng thực sự có mặt, có quyền lực để bảo vệ quyền lợi của chúng, bằng đặc quyền, đặc lợi, đặc ân do chúng chế ra. Đó là bạo quyền lãnh đạo, dùng bạo lực để bạo hành dân tộc, giống nòi như một phản xạ của một chế độ công an trị, giờ phản xạ này đã là hằng số, nó nói lên bản chất của độc đảng trong độc quyền, độc tài để độc trị. Đó là tà quyền tham quan, dùng tham quyền để tham ô, vì tham tiền nên tham nhũng, bòn rút tài nguyên đất nước, rút tỉa sinh lực dân tộc, lấy chuyện cướp ngày là quan để lách luật, trốn luật, thậm chí xé luật, để chống lưng cho bọn sân sau của chúng trong bóng đêm qua mua chức bán quyền, đang sâu mọt hóa mọi đạo đức của Việt tộc. Ma quyền tham tiền, là bọn con buôn không có đạo lý vì không biết luân lý nên chẳng màng gì tới đạo đức, chúng chỉ biết tham-đất-vì-tham-tiền nên chúng không thấy cảnh đồng bào vô gia cư là cảnh rất thương tâm.
NHÂN HỌA ĐỘC
Nếu nhân quyền chưa tới được bằng dân chủ trong số phận của Việt tộc hiện nay, thì các chính nhân đại diện cho chính giới phải là chính khách trong nhân vị của minh vương, trong nhân bản của minh chúa, trong nhân từ của minh chủ, trong minh trí của minh sư, mà Việt tộc đã không hề thiếu trong Việt sử của mình. hiện tượng xã hội vô gia cư, sinh ra các hệ quả xấu đang và sẽ làm nên nhân họa độc, nơi mà thực tế vô gia cư của bao đồng bào đã đưa ra những chỉ báo phân tích để giải thích bao hệ quả đang trùm bẫy Việt tộc. Kẻ quá giàu qua hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) chính là ký sinh trùng sống nhờ và phát triển trên ung thư của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc tôn, độc quyền). Chính hai hệ tham và độc san sinh ra hai hệ khác là: hệ bất (bất lương, bất tín, bất nhân) song đôi để song hành cùng hệ vô (vô tâm, vô giác, vô tri, vô cảm). Cả bốn hệ này: tham, độc, bất, vô tham quyền để cố vị và diệt cho bằng được hai hệ chính là hai vốn quý của xã hội là: hệ công (công bằng, công lý, công tâm) luôn biết dựa vào hệ đa (đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu) có chân dung diện mạo của đa đảng tận dụng dân chủ vì nhân quyền.
DÂN TỘC: NẠN NHÂN TRONG NẠN HỌA
Nếu kinh tế học là một chuyên ngành đặt lợi ích tập thể trên lợi ít cá nhân để bảo vệ an sinh xã hội, lấy kinh tế phục vụ cho công bằng, bằng công lý của công luật, thì kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay đang bơi ngược, đi ngược, chạy ngược với định nghĩa này. Một ý thức hệ với tên gọi là cộng sản chủ nghĩa, nơi mà công sản của Việt tộc hiện nay từ tài nguyên của đất nước tới nguyên khí của dân tộc đều đang nằm trong quỹ đạo của quá trình tư hữu hóa của một thiểu số đang nắm quyền lực. Mà những kẻ nắm quyền để có quyền sở hữu này chính là: bạo quyền lãnh đạo song lứa với tà quyền tham quan để song hành cùng ma quyền tham tiền. Một thiểu số sinh hoạt như những bè, nhóm, phái với hành tác của các tập đoàn tội phạm: không trộm được thì cướp, không cắp được thì giật! Cộng sản thì làm sao lại tư hữu hóa công sản? Tại đây, định nghĩa kinh tế học là gì phải đi đôi, đi cùng với định đề để định luận sinh hoạt kinh tế, đời sống kinh tế, tổ chức kinh tế. Nếu một xã hội mà thảm trạng tư hữu từ tài nguyên, nguyên liệu, thiên nhiên tới lao động, bất động sản là quyền tự do qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của một thiểu số khai thác, thao túng một độc đảng là ĐCSVN trong tham quyền để lộng quyền, thì xã hội này không có tự do cho đa số đồng bào, dân tộc: xã hội Việt Nam hiện nay không phải là xã hội của tự do!
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).