Giải Luận: Dân Tộc (P15)

CHỦ THỂ VIỆT VẪN CHƯA «DỨT DUYÊN» VỚI NHÂN QUYỀN
Hãy phân tích thêm là dân chủ vẫn chưa «dứt duyên» với nhân quyền, chỉ vì lý tưởng nhân quyền không ở sau lưng chúng ta, mà luôn ở trước mắt chúng ta, vì bạo quyền vẫn hằng ngày đe dọa, khủng bố, truy hiếp nhân quyền, trên các quốc gia chưa có dân chủ… như Việt Nam hiện nay. Chủ thể Việt có nhận thức là chủ thể nắm vững hệ thức: biết lấy kiến thức để xây dựng tri thức, biết nhận ý thức để định vị nhận thức, không ngây thơ trong xã hội để không ngây ngô trong chính trị, vì chủ thể nhận thức biết phân biệt xảo ngôn tuyên truyền để phân loại xảo thuật chính trị. Chủ thể nhận thức cẩn trọng trước mọi cấu trúc trộn lẫn để hòa đồng, thí dụ như xảo ngữ «ý đảng lòng dân», mọi ý đồ trộn lẫn đều mang thâm ý khống chế, nơi đó có kẻ chính «làm cha» người phụ, kẻ trên đi trên lưng, trên vai, trên đầu người dưới; tại đây không hề có công bằng, mà chỉ có lợi dụng để lạm dụng; loại xảo ngôn này thì «ý đảng» lãnh đạo nên làm chủ, còn «lòng dân» đóng vai tớ chịu sự lãnh đạo. Ngược lại, khi chủ thể thực sự dân chủ, vì không muốn làm nạn nhân tôi tớ cho độc tài thì cứ đổi lại «ý dân» làm chủ, để được dân chủ bó buộc «lòng đảng» là phải tận tâm, tận lòng phục dịch cho «ý dân».

CHỦ THỂ VIỆT + DÂN CHỦ VIỆT
Chủ thể Việt làm nên dân chủ Việt nơi mà «ý dân» được thực hiện qua bốn giai đoạn dân chủ: ý muốn của dân có công bằng xã hội song hành cùng tự do cá nhân; ý định của dân là khử độc tài để xây dựng có dân chủ trong nhân quyền, ý nguyện của dân có tiến bộ xã hội trong văn minh của tiến hóa, ý chí của dân trong độc lập dân tộc với toàn vẹn lãnh thổ. Khi phương trình Việt đã có đáp số này rồi:
Chủ thể Việt + dân chủ Việt = dân chủ + tự do + công bằng + bác ái, thì không một bạo quyền độc tài nào có thể làm mất nhân phẩm Việt, thì không một tà quyền tham quan nào có thể làm mất nhân vị Việt, thì không một ma quyền tham tiền nào có thể làm mất nhân cách Việt được cả! Cái đẹp của yêu nước, cái cao của thương nòi nhiều khi hiện diện rất bình thường trong cái bị xem là quê mùa, đừng ngại bị chê là quê mùa, bị chọc là nhà quê, bạn à. Nếu cái quê là quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn của mình thì nơi đó có cái trong của bản sắc Việt, có cái sáng của văn hóa Việt làm nên cái đẹp của tâm hồn Việt, tạo nên cái cao của tình cảm Việt.

CON ĐƯỜNG SỰ THẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
Con đường giúp ta tới với sự thật của đất nước, để đến với chân lý của dân tộc, giúp ta gặp và giữ được lẽ phải của tình cảm yêu nước thương nòi. Khi bạn quý trọng đất nước Việt, khi ta kính yêu đồng bào Việt, thì sự thật của đất nước, chân lý của dân tộc, lẽ phải của tình cảm yêu nước thương nòi có sức liên kết vô song làm nên mãnh lực cứu nước để giữ nước mà không một bạo quyền độc tài nào, một tà quyền tham quan nào, một ma quyền xâm lược nào có thể bóp chết lòng yêu nước thương nòi của bạn. Cái đẹp của yêu nước, cái cao của thương nòi giúp chúng ta nhìn ra được đất nước, kề cận được quê cha đất mẹ để cảm nhận được những thăng trầm của một đất nước luôn phải gánh chịu những cuộc chiến. Trên mảnh đất này, đồng bào mình phải trả những cái giá khốc liệt nhất, chính đây là vốn Việt sử làm nên cái vốn cho tình cảm yêu nước thương nòi, khách quan và rõ ràng, ở đây chúng ta như chạm vào được sự thật của quê hương trong chiều sâu của nó. Hậu quả chiến tranh là một sự thật làm nên tâm hồn Việt của một dân tộc biết yêu quý hòa bình luôn muốn bảo vệ cho bằng được sự sống. Chính sự có mặt của nỗi buồn qua các mất mát do chiến tranh gây nên làm chúng luôn nhận thức là nỗi buồn nầy chính là nỗi niềm của dân tộc, hãy đặt tên cho nó là cái vốn của sự thật yêu nước thương nòi, luôn là những nỗi lo của mọi người Việt muốn thở cùng một nhịp thở với dân tộc, với đất nước.

SỰ THẬT YÊU NƯỚC THƯƠNG NÒI
Sự thật yêu nước thương nòi có gốc, rễ, cội, nguồn trong nội kết của nỗi buồn quá khứ-nỗi niềm hiện tại-nỗi lo cho tương lai chính là sự thật của mọi sự thật về lòng yêu nước trong mỗi người Việt, đây là chỉ báo chính xác nhất nhận ra nhân phẩm Việt. Lòng trằn trọc vì dân tộc, vì quê hương trước các hiểm họa diệt vong tới từ các tập đoàn buôn dân bán nước đang mở cửa cho bọn xâm lăng Tàu tặc, chúng đã tràn lan trên đất Việt: xâm chiếm đất, đảo, biển; xâm lăng kinh tế, thương mại; xâm lược chính trị, cơ chế…. Các trạng từ giờ được chúng ta thêm vào: vô cùng, vô hạn, chính là nội công của ý lực của câu chuyện yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn, các trạng từ này không hề là sáo ngữ, không hề là loạn ngôn, nó là quyết tâm làm nên quyết đoán để dẫn tới quyết định chung của tất cả chúng ta là không để bị: mất nước! Và không làm kiếp nô lệ! Mang tâm cảm yêu nước vô cùng, có thâm cảm thương nòi vô hạn thì không bị giới hạn nào, tức là không lo sợ một bạo quyền độc tài nào muốn truy hiếp chúng ta; không lùi bước trước một tà quyền phản dân hại nước nào sát hại chúng ta; không cúi đầu trước bất cứ ma quyền xâm lược nào muốn đô hộ chúng ta. Yêu nước vô cùng là chuẩn bị chấp nhận những hy sinh vô biên, không rào cản; thương nòi vô hạn sẽ loại bỏ đi các con tính hữu hạn của ích kỷ trong mỗi cá nhân.

YÊU NƯỚC VÔ CÙNG, THƯƠNG NÒI VÔ HẠN
Chúng ta ngày càng xa lạ với loại hoạn kịch của ai chết mặc ai, rồi bây chết mặc bây, đã làm nên cái vô cảm đang tràn lan trong xã hội Việt hiện nay, dưới sự lãnh đạo của một đảng độc tài trong bất tài về đạo lý, không có đề nghị được một đề nghị luân lý nào từ khi nó cướp được chính quyền, để có thể làm nên một giáo lý quốc gia mà đưa dân tộc tới văn minh. Tình cảm yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn là một sự thật có trong đời sống hằng ngày của chúng ta, dù bận bất cứ sinh hoạt nghề nghiệp nào, dù bị lôi cuốn vào bất cứ động cơ vật chất, tài chính, kinh tế nào, thì chúng ta luôn có thì giờ nhớ về quê hương, gởi tình thương của ta về đồng bào mình. Khi đó thâm tình yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn trỗi dậy như những đợt sóng, có khi những đợt sóng này tới lúc giữa khuya, có khi bắt đầu một ngày của phút đầu tiên một buổi sáng còn tinh sương. Những đợt sóng dạt dào này, lúc thì chỉ vài phút, lúc chúng ở lại với ta hằng giờ, có khi chúng ngự trị giữa nhân sinh quan của ta cả ngày, cả tuần, cả tháng, cả năm một cách vừa hồn nhiên, vừa mãnh liệt. Những đợt sóng này trỗi lên giúp ta nhìn cuộc sống chung quanh bằng hùng lực của yêu vô cùng, thương vô hạn; đây là sự thật mà bạo quyền bán nước, tà quyền buôn dân, ma quyền xâm lược không sao hiểu thấu tới nơi tới chốn được tình cảm này.

YÊU TRÁI ĐẤT VÔ CÙNG, THƯƠNG MUÔN LOÀI VÔ HẠN
Yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn lẳng lặng bồi đắp một công trình mà bạn sẽ từ từ khám ra, một công trình tuyệt diệu! Cụ thể là tình cảm này đang xây dựng một thế giới quan mới, đang chế tác ra một vũ trụ quan mới, để dâng hiến cho những ai yêu nước thương nòi. Những đợt sóng chung thủy này làm cho nhân phẩm của ta ngày càng cao, làm cho nhân nghĩa của ta ngày càng lớn. Đó là thế giới quan hiểu để thương tất cả các dân tộc biết yêu đất nước của họ, tức là vừa sống vừa bảo vệ quê hương họ, dân tộc họ. Đó là vũ trụ quan thấu để quý tất cả các dân tộc biết yêu và biết bảo vệ môi sinh của họ; cùng lúc biết tôn trọng tất cả môi trường trong và ngoài quốc gia của mình trên trái đất này; nơi mà muôn loài có cùng một dòng sinh mệnh. Từ đây, cụm từ lực yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn sẽ song hành cùng một bạn nối khố mới của mình là yêu trái đất vô cùng, thương muôn loài vô hạn, cả hai sẽ đi về cùng đi về một chân trời, nơi đó người ta sống để sống đẹp trong sống vui, chớ không phải sống để «bán đứng» nhau. Yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn không chỉ là một tình cảm chủ quan, mà nó là một tư tưởng có lý luận qua thực tế của xã hội, có lập luận qua thực cảnh của dân tộc, có giải luận qua thực trạng của đồng bào mình. Cụ thể hơn nữa tư tưởng này giúp tất cả con dân yêu nước nhận ra sự thật tương lai của chính số phận của mình bằng phương pháp diễn luận của vô trương bất tín (thấy mới tin, không thấy không tin).

DỰNG NƯỚC-GIỮ NƯỚC-CỨU NƯỚC
Hãy thấy một cách rất sáng suốt là phản dân hại nước sẽ đưa tới buôn dân bán nước, khi tà quyền đi đêm với Tàu tặc qua các mật nghị mà dân tộc không biết, nhân dân không được quyền xem thì sự bất minh đã thành bất chính. Thí dụ rõ nhất là mật nghị Thành Đô, và hiện nay là những thỏa hiệp được giữ tuyệt mật của hai đảng, ĐCSTQ và ĐCSVN, được ký và kết bởi hai lãnh tụ Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng. Tại sao lại giấu? Người ta giấu vì người ta có tư lợi trong chuyện giấu diếm này, đây là bài học đầu tiên trong xã hội học quyền lực. Tại sao lại giấu? Người ta giấu vì người ta mà đưa ra cho nhân dân xem thì chính nhân dân cũng «không thể tin» vào con mắt của mình, vì sự thật bán nước ở ngoài mọi tưởng tượng của những người yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn, đây là bài học căn bản vỡ lòng của tâm lý học truyền thông. Chuyện thay đời, đổi kiếp là ý muốn tạo ra ý định dựng nên ý nguyện muốn thay một cuộc sống xấu thành một cuộc đời tốt; muốn đổi một kiếp tồi thành một kiếp tốt, từ đây ý nguyện sẽ thành ý lực làm nên hành động cụ thể, để chống tà quyền bán nước, chống ma quyền xâm lược. Mà không cần phải qua bạo động sắc máu, không cần phải qua bạo lực sinh ra hệ lụy; mà bằng chính các vốn thông minh mà ta đang có từ khi ta biết yêu nước thương nòi: vốn tổ tiên biết dựng nước-giữ nước-cứu nước.

BIỂU TƯỢNG THÔNG THÁI CỦA MỘT
Đồng tâm làm nên cái đồng điệu của một. Chữ: đồng đây chính là biểu tượng thông thái của một, nhờ có đồng tâm, đồng điệu nên họ làm được chuyện đồng lòng, đó chính là nhất trí! Trong một ý chí duy nhất là giữ nước cứu dân vì yêu nước thương nòi. Tổng thể của một là hùng lực của phương trình đồng tâm-đồng điệu-đồng lòng làm nên nhất trí, một sự đoàn kết tuyệt đối của một, của nhất, của đồng: một sức mạnh vô song. Sức mạnh này sáng như hải đăng trong Việt sử của một dũng tộc, tên gọi là Việt tộc, đã thắng hơn 20 lần các cuộc xâm lược tới từ phương bắc, một dũng tộc mà cũng là một minh tộc, có đủ thông minh để hiểu rõ gốc, rễ, cội, nguồn của một, của nhất, của đồng. Mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đúc kết thành định đề: rễ sâu, gốc chắc! Để dặn dò vua Trần Anh Tông là không lo, không sợ quân Nguyên trở lại, nếu chúng trở lại, thì ta lại sử dụng rễ sâu, gốc chắc! Của lòng đoàn kết tuyệt đối của một, của nhất, của đồng để làm nên một sức mạnh vô song mà dẹp chúng. Vậy mà, vừa qua ngày 17 tháng 2 năm 2019 này, tà quyền độc đảng đã lén lút dời lư hương trước tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mà Việt tộc kính yêu như Đức Thánh, chỉ vì chúng lo sợ là các con dân yêu nước thương nòi sẽ ra thắp hương, cúi đầu để tưởng niệm 40 năm, ngày các chiến sĩ và đồng bào đã tử vong sau ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Tàu tặc xua hơn sáu mươi vạn quân gây ra bao chiến họa trên sáu tỉnh biên giới.
Giải Luận: Dân Tộc (P16)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s