Nhân đạo của chủ thể hóa xã hội dân sự
Chủ thể hóa xã hội dân sự phải được bắt đầu bằng những định đề và định luận trên về chủ thể, từ đây chúng ta sẽ nhận ra chỉ có một xã hội dân sự thật sự là một xã hội được chủ thể hóa. Nơi mà cá thể đã nhập nội vào tập thể, nơi mà cá nhân đã cùng chân trời với đồng bào, đồng loại để tạo ra tâm điểm cho ba nhân lộ được cùng nhau hội tụ trên cùng môt nhân đạo:
• Nhân lộ của các giá trị tự do, công bằng, bác ái.
• Nhân lộ của các giá trị đa nguyên, dân chủ, nhân quyền.
• Nhân lộ của các giá trị phát triển, tiến bộ, văn minh.
Chủ thể hóa xã hội dân sự bằng kiến thức của các hành tác minh trí biết gìn giữ văn hiến của tổ tiên, văn minh của dân tộc, văn hóa của giống nòi, luôn là ý thức tập thể để chủ thể hóa xã hội dân sự. Một xã hội luôn đấu tranh vì quốc thái dân an, trợ lực cho nhận thức của các lãnh đạo chính trị biết yêu nước thương nòi. Khi tổng hợp kiến thức minh trí, ý thức minh lý, nhận thức minh tri trên nhân lộ chủ thể hóa xã hội dân sự, thì các lãnh đạo chính trị phải có chính tri để biết vô hiệu hóa các xung đột nội bộ trong chính giới, để công năng hóa các hợp tác quốc tế. Từ đó loại đi mầm móng của nội chiến, gạt ra nguồn cơn của ngoại chiến, xa chiến tranh để gần hợp tác, xa chém giết để để sống chung bằng chung sống, để hợp tác trong hòa bình.
Chủ thể hóa xã hội dân sự thường bắt đầu bằng những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng biết yêu nước thương nòi. Chủ thể hóa xã hội dân sự là cuộc hành trình của giáo huấn trước một dân tộc là cúi đầu trước tham nhũng của tà quyền ngày ngày làm nên khuyết tật dài lâu cho chính dân tộc đó. Chính những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng nhận trách nhiệm giáo dục cho một xã hội là quỳ gối trước các lũng đoạn của ma quyền tham tiền là khoanh tay chấp nhận một điếm tật đáng khinh bỉ. Vì những điếm tật đáng tởm, đáng lợm, đáng nhờm này là do bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền làm ra từ tuyên truyền trị để tạo ra ngu dân trị, những điếm tật này không hề là của xã hội, của dân tộc, của giống nòi.
Chủ thể hóa xã hội dân sự có đường đi nẻo về của các cá nhân, các hội đoàn, các tập thể, các cộng đồng với lòng yêu nước thương nòi sẽ đưa xã hội cúi đầu, dân tộc khom lưng ra khỏi ma trận âm binh của tuyên truyền ngu dân trị. Chủ thể hóa xã hội dân sự để đưa đường dẫn lối cho chính quyền phải biết quản trị tốt một đất nước, trước hết phải biết rằng quản trị ngược với cai trị. Chủ thể hóa xã hội dân sự là chống lại sự cai trị của bạo quyền độc đảng toàn trị bằng các định luận của cộng hòa (tự do-công bằng-bác ái) trên các định chế của dân chủ (tam quyền phân lập). Từ đây, quản trị là một quá trình khai thị: đồng bào không phải là «các lực lượng tù địch», đồng loại không phải là «các lực lượng cơ hội», và tha nhân không phải là «các lực lượng phản động» như luận điệu tuyền truyền của độc đảng toàn trị hiện nay.
Các loại ngữ vựng để chế tác ra các loài ngữ văn: «các lực lượng tù địch», «các lực lượng cơ hội», «các lực lượng phản động» chính là hiện tượng quan của một tâm lý bất an có gốc, rễ, cội, nguồn của một loại lãnh đạo mang tà tâm chính trị, đã ăn ngủ không yên trước lẽ phải của xã hội dân sự. Hiện tượng trực quan của thực tế mắt thấy tai nghe làm nên hiện tượng luận của thực trạng thối nát do chính bạo quyền độc đảng công an trị, tà quyền độc quyền tham nhũng trị, ma quyền ngu dân trị đã tạo ra bao bất bình đẳng, để sinh sôi nảy nở bao bất công. Chính hiện tượng luận đầy dẫy bất công sẽ kết tụ rồi kết tinh để kết luận rằng xã hội dân sự chính là sung lực cho dân tộc để kết liễu số phận của bạo quyền, tà quyền, ma quyền. Chủ thể hóa xã hội dân sự sẽ trực diện để trực tiếp chống lại của tham nhũng trị là mua chức bán quyền, song hành cùng chạy chức mua ghế, mua chức để lọt vào tà quyền lãnh đạo, từ chính phủ tới quốc hội, từ chính quyền tới tư pháp. Đám tội phạm này cũng đã mua quốc tịch ngoại, chuyển tiền của tới tự tham nhũng ra ngoại quốc, đã chuẩn bị cao bay xa chạy, sau khi đã vơ vét tiền tài của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước. Cái trống, cái vắng, cái rỗng chung quanh chữ thương dân từ não bộ tới não trạng của đám đầu lãnh không hề có tình thương đất nước, lòng thương dân tộc, tin thương giống nòi, đã thành phản xạ ngay trong hành vi vô tri đã làm nên hành động vô luân của chúng với Việt tộc.
Nhân tri của chủ thể hóa xã hội dân sự
Chính nhân tri của chủ thể hóa xã hội dân sự sẽ là khung của dân chủ để đưa đường dẫn lối cho lãnh đạo chính trị làm nên chính sách, có nội dung của chính nghĩa với quyết đoán chính trị, tạo nên chính danh của lãnh đạo chính trị. Tất cả chính sách, chính nghĩa, chính danh đều phải có nội lực của ý nguyện tốt vì đồng bào, của ước nguyện lành vì đồng loại. Xã hội dân sự sẽ tháo, gỡ, gặt, ngăn những tính toán xấu vì tư lợi, những toan tính tồi để trục lợi, vì cả hai đều phản lại ý nguyện tốt vì dân tộc, ước nguyện lành vì đất nước. Nên xã hội dân sự trực tiếp giảm tuổi thọ của ma quyền vì tư lợi, tà quyền để trục lợi, rồi xua bạo quyền độc đảng toàn trị mau vào huyệt đạo.
Xã hội dân sự yêu cầu lãnh đạo chính trị phải liêm chính, liêm khiết trong chính sách, liêm sỉ trước nhân dân. Không phải là đám quan tham đã biến thành tội phạm, từ tướng lĩnh tới bộ trưởng, từ ủy viên bộ chính trị tới ủy viên trung ương đảng, để khi phải ra tòa vì tham nhũng lại khóc lóc mà tự thú là bất tài, rồi khóc than xin đảng trưởng tha tội, mà không hề biết cúi đầu xin lỗi nhân dân. Xã hội dân sự không chấp nhận sống chung với đám đầu lãnh vô tri, đám đầu sỏ vô minh, đám đầu nậu vô luân đã và đang sinh sôi nẩy nở ngay ĐCSVN hiện nay. Xã hội dân sự phải nhận vai trò vạch mặt chỉ tên đám đầu lãnh vô tri, đám đầu sỏ vô minh, đám đầu nậu vô luân này để trong sạch hóa nhân bản của Việt tộc. Không có tư cách chính khách, không có phong cách chính giới, không có nhân cách chính trị thì đừng lãnh đạo.
Chính xã hội dân sự sẽ quyết định tuổi thọ của một đảng lãnh đạo không nằm trong cấp số nhân của các nhiệm kỳ, cũng chẳng chui rúc qua mưu hèn kế bẩn của kẻ cướp quyền vì tham quyền, cực quyền vì cuồng quyền, lộng quyền vì loạn quyền. Chính xã hội dân sự sẽ quyết định tuổi thọ của một đảng lãnh đạo phải yểu mệnh vì độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị, độc tôn nhưng lại chôn lấp các tôn ti trật tự trong cơ đồ của tổ tiên. Vì trong các quốc gia có văn minh dân chủ song hành cùng văn hiến nhân quyền làm nên hùng lực của các xã hội dân sự của các quốc gia đó, thì tuổi thọ của một đảng lãnh đạo nằm trong sự thông thái của quyết sách. Nên tuổi thọ của một đảng lãnh đạo phải là sự thông thạo quốc sách, đó là hằng số của sự thông minh chính trị làm nên trí tuệ của chính tri. Vì xã hội dân sự buộc chính khách, chính giới, chính trị phải chính tri.
Bạo quyền độc đảng thấy «khuyết điểm» của dân tộc khi dân tộc không phục vụ đầy đủ cho nó, còn dân tộc thì thấu rành mạch khuyết tật của bạo quyền độc đảng sâu trong lòng tham không đáy của nó. Trong cơn khát vô hạn của bạo quyền độc đảng, trong cơn đói vô biên của tà quyền độc trị, chúng đã «ăn chẳng chừa một thứ gì», chúng thi nhau là đứa này phải «ăn dày» hơn đứa kia. Nhưng một xã hội dân sự có nội công của nhân tri dân chủ, có bản lĩnh của nhân trí nhân quyền sẽ vạch mặt chỉ tên đám lãnh đạo khi đã có ý định tính toán quanh quyền lợi thì sẽ dẫn tới ý muốn toan tính cướp quyền lực, chóng chày sẽ tạo ra ý đồ mưu toan vì tư lợi. Chỉ vì đồng bào, đất nước, giống nòi hoàn toàn không có chỗ đứng; và xã hội, cộng đồng, tập thể hoàn toàn không có ghế ngồi trong ý định tính toán quanh quyền lợi, ý muốn toan tính cướp quyền lực, ý đồ mưu toan vì tư lợi của đám lãnh đạo này.
Nên khi bạo quyền độc đảng nhập hồn vào tà quyền tham nhũng, nhập vong vào ma quyền tham tiền, thì nhân diện xấu, tồi, tục, dở của nó đã được định hình bởi nhân dạng thâm, độc, ác, hiểm, mà cả hai tới từ bất nhân cách gian, tà, xảo, hèn của nó, với biệt danh hèn với giặc, ác với dân. Nên xã hội dân sự sẽ có từ chứng cớ tới chứng từ, từ chứng tích tới chứng nhân để xác chứng rằng: bạo quyền độc đảng toàn trị từ khi nó rời nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa; từ lúc nó bỏ nhân bản, nhân văn, nhân vị, từ độ nó rời nhân tính, nhân lý, nhân đạo, thì chính nó tự loại bỏ nó ra khỏi nhân lộ của nhân loại. Vì vậy, số kiếp của nó không còn là nhân kiếp, mà đã trở thành súc kiếp của loài dã thú bằng súc dạng ăn tươi nuốt sống, xã hội dân sự không bao giờ chấp nhận nó, chỉ vì nó diệt tha nhân để nuôi thân.
Chính xã hội dân sự sẽ rành mạch hóa các hậu quả cùng hậu nạn tới từ bạo quyền độc đảng toàn trị biến đất nước Việt thành một nhà tù, giam cầm dân tộc Việt trong vòng lao lý. Nên hai từ đồng bào không có ý nghĩa gì trong một chế độ công an trị, tham nhũng trị, ngu dân tri, tuyên truyền trị, tội ác trị, thanh trừng trị… Khi đám lãnh đạo vừa là bạo quyền độc đảng, vừa là tà quyền tham nhũng, thì chúng đã muốn xuất hiện cùng lúc trên hai độc lộ chỉ mang đến các hậu nạn độc hại cho giống nòi Việt. Đám lãnh đạo vừa là ma quyền tham tiền, vừa là quỷ quyền tham chức, thì chúng đã đi hai chân trên hai tà lộ. Đám lãnh đạo này lại vừa là cực quyền công an trị, vừa là cuồng quyền ngu dân trị, thì chúng đã tách não trạng của chúng ra khỏi não bộ của Việt tộc. Chính xã hội dân sự sẽ minh chứng hóa là đám lãnh đạo này ngày đêm mang số phận âm binh, chia nhau đặc quyền trong âm giới; suốt kiếp mang số phận âm phần chém giết nhau vì đặc lợi trong âm lộ của thanh trừng trị. Và xã hội dân sự sẽ pháp lý hóa đám lãnh đạo này từ ngày sinh tới ngày tận thế của chúng, từ lý lịch của chúng luôn xuất hiện với hành vi thanh toán, đeo đẳng với hành động thanh trừng, đây chính là hành tác chém giết của âm binh trong một địa ngục bất nhân thất đức. Nhân đạo của xã hội dân sự sẽ báo tin về những cái chết của các bạo quyền độc đảng toàn trị, nơi đây, xã hội dân sự luôn đại diện cho sự sống: chung sống trong vui sống, sống chung trong sống vui.
Xã hội dân sự thấy-để-thấu một tên chủ tịch nước có thể là nạn nhân trong phản xạ thanh trừng giữa đầu lãnh, khi qua đời phải nhập mộ phần, lại chiếm nhiều mẫu ruộng để tự làm lăng tẩm, trong khi nông dân không đủ đất để canh tác. Xã hội dân sự biết xem-để-xét một ông tướng nọ khi qua đời lại chiếm cả một cái đồi tại miền Trung cũng để làm lăng tẩm; đó là chưa kể các nghĩa địa mà đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu của ĐCSVN luôn được xa hoa hóa trong vô tri lẫn vô minh. Cùng lúc thì các nghĩa trang của các chiến sĩ hy sinh vì đất nước chống Tàu tặc tại biên giới phía Bắc thì bị trở thành bình địa trong hoang ma.
Xã hội dân sự như một chủ thể minh trí không bao giờ chấp nhận đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu, chúng đã bất chấp nỗi khổ của đồng bào, nỗi đau của dân tộc. Chỉ vì xã hội dân sự là một chủ thể có nhận thức rành mạch là các loại đặc quyền, đặc lợi, đặc ân này tới từ bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham quyền trị, quỷ quyền ngu dân trị. Nếu đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu sống trong gian trá, gian lận, gian manh thì giá trị tâm linh của tình thương dân tộc, tình nghĩa đồng bào không có một giá trị gì đối với đám này. Đây vừa là thảm nạn, vừa là hậu nạn của chúng, mà xã hội dân sự như là một chủ thể dày nhân bản, sẽ báo ngày dứt kiếp của chúng.Thường dân có thể chỉ muốn sống vì mình, nhưng xã hội dân sự như một chủ thể minh trí bắt buộc các lãnh đạo chính trị phải sống vì người, vì tha nhân, vì đồng bào, vì đồng loại. Ngược lại làm lãnh đạo mà chỉ muốn sống vì mình, lấy tham quyền để nuôi lạm quyền, lấy tham quan để nuôi hoạn quan, thì không phải là lãnh đạo. Chính xã hội dân sự sẽ vạch mặt chỉ tên chúng chỉ là ký sinh trùng của quyền lực, ký sinh thể của quyền lợi, loại gà què ăn quẩn côi xay trong tính toán ốc mò cò ăn, trong toan tính cướp ngày là quan.
Chủ thể hóa xã hội dân sự để vạch đường chỉ lối cho lãnh đạo chính trị phải hành động trong tỉnh táo, hành tác trong sáng suốt, biết thức tỉnh khi xã hội bị lạc đường, biết tỉnh thức mà nhận ra chân trời của tương lai, vì đất nước, vì dân tộc, vì giống nòi. Xã hội dân sự được xây dựng bằng đa tài của nhiều tập thể, bằng đa trí của nhiều cộng đồng, đa hiệu của nhiều hội đoàn, đa năng của nhiều thành phần xã hội, nên đạo lý của xã hội dân sự chính là đa nguyên. Não bộ của xã hội dân sự là đa trí, não trạng của xã hội dân sự là đa tri, nên xã hội dân sự hoàn toàn ngược chiều với độc đảng luôn cô độc trước nhân dân, nghịch hướng với độc tài luôn cô đơn trong xã hội. Ngược lại, chủ thể hóa xã hội dân sự để biết tự cứu xã hội, cùng lúc cứu nguy cho dân tộc, và cứu nạn cho giống nòi.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).