Chủ Thể Của Chủ Kiến (P1)

Minh sư xưa: những bài học về chủ thể 

Chủ thể từ minh sư tới mưu sư

Chủ thể không chỉ là cá nhân hay cá thể, mà chủ thể khi hiểu đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) rồi, khi thấu luân lý (bổn phận và trách nhiệm) rồi, thì có tự do trong sáng kiến để cải thiện điều kiện làm người của mình. Chủ thể là tự do có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong thế thăng bằng của nhân quyềndân chủ (nhân quyền trong dân chủ, và dân chủ bằng nhân quyền). Ngữ pháp nhân chủ phải dựa trên chủ thể, có tự do trong sáng lập để gây dựng các phương án cho tương lai, vì muốn được thăng hoa trong cuộc sống, có tự do trong sáng tạo. Hãy nghiên cứu chân dung chủ thể của đại sư Vạn Hạnh. Ngài vừa tu học một cách trí thức, Ngài vừa là minh sư từ đời Đinh qua đời Lê, Ngài lại là thầy của Lý Công Uẩn, tiếng đồn đại là Ngài có thể là cha đẻ của Lý Công Uẩn, nhưng một điều chắc chắn là không có Ngài sẽ không có Lý Thái Tổ, không có nhà Lý, một triều đại minh và thông của Việt tộc. Minh sư phải là mưu sư, tài phân tích của Ngài mà người thời đó gọi là tài tiên tri, đoán đâu trúng đó, thật ra là thâm tài về tổ chức các sự cố vừa thuận lợi, vừa tích cực để tạo ra tình thế mới, nhất là để thay đổi cán cân lực lượng trong chính trị, trước sự suy đồi của một triều Lê đã không có lối ra, trước họa xâm lăng của giặc phương Bắc. Không những chính giới mà cả trong văn bản của Phật giáo thời đó (Thiền Uyển Tập Anh) kể lại không biết là bao nhiêu mưu lược của Ngài. Chắc là cũng từ Ngài mà ra câu chuyện con chó đen mang trên lưng hai chữ trắng: thiên tử, để mọi người khi thấy phải đoán năm Tuất tới thì nước Việt sẽ có vua mới, cách dọn đường đầy mưu trí để Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nhà Lý như đã cầm được trong tay: “thiên mệnh”.  Minh sư phải là mưu sĩ, tuệ giác nhận định tình thế của Ngài luôn tôn trọng quy luật tổ chức không gian qua thời gian, ưu thời mẫn thế, để nắm phần chủ động trên chiến trường.  Ngài luôn được Lê Đại Hành tham vấn về các chuyện hệ trọng cho cơ đồ Việt, tuân theo lời Ngài, Lê tướng quân đã đánh đúng lúc để đánh thắng trọn quân xâm lược phương Bắc và quân Chiêm phương Nam. Minh sư ngay trên mặt trận giữ nước, Ngài là cầu nối từ đời Đinh tới đời Lê, qua tới đời Lý (mà ngay trong hậu đài Ngài đã tạo gầy dựng nên). Minh sư phải minh trí, chuyện thịnh suy của một triều đại, chuyện thăng trầm của một đất nước, cũng là hệ vô thường trong Phật học, điều này Phật Hoàng Trần Nhân Tông, đã thấy rất rõ, đã làm thơ ca tụng tài học sâu hiểu rộng, để nhìn xa trông rộng của Ngài.

Thơ của Ngài mang tư tưởng sáng suốt về kiếp người, và rất tỉnh táo về lý luận lấy nhân tri để đánh thức nhân sinh: “Thân như bóng chớp có rồi không… Mặc kệ thịnh suy đừng sợ hãi…”. Chân dung chủ thể của đại sư là nhân dạng minh sư-mưu sư-mưu sĩ-minh trí chính là phương trình mà các lãnh đạo hiện nay phải ra trí, ra tâm, ra lực để học tập đại sự Vạn Hạnh, vì trận chiến chống Tàu tặc trước mắt cần rất nhiều minh, rất nhiều trí, rất nhiều mưu! Hãy dùng chuyện xưa của Vạn Hạnh để soi nay của một tập đoàn tội phạm lãnh đạo ĐCSVN với độc đảng của toàn trị, đang lạc lõng vì không biết trọng để biết nghe các minh sư chỉ giáo, các mưu sư vạch đường chỉ lối để thoát Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn… Một tập đoàn tội phạm lãnh đạo đang lạc lõng ngay trong nội tạng của ung thư nội xâm qua tham nhũng của loài sâu dân mọt nước tới, rồi sẽ sa đà vào tà lộ phường buôn dân bán nước, với ngoại xâm Tàu tà đã và đang kề cận ngay trên thềm lục địa của Việt tộc. Bi kịch của ĐCSVN chính là thảm kịch của Việt tộc, một tập đoàn tội phạm lãnh đạo với độc đảng của công an trị ngày ngày xiết diệt sự thông minh của Việt tộc, truy hủy sự thông thái của các minh sư, sát phạt sự thông thạo của các mưu sĩ đang có trong nhiều nhân sĩ Việt hiện nay, họ như cha ông trong chân dung của đại sư Vạn Hạnh đã bao lần biết cứu nước, giữ nước. 

Chủ thể của trí cương trực, tâm tiết tháo, đời trong sạch.

Chủ thể biết giải luận, mang khả năng của giải thích bằng kiến thức và tri thức không thể chấp nhận được chuyện đe dọa nhân phẩm là: độc tài, tham nhũng, bất công, bạo động, tha hóa, đồi trụy… Chủ thể có năng lực giải trình, có chương trình hành động, vì có giáo trình đạo đức của chuyện «vì ta và vì người»; tại đây tính hợp lý, tính chỉnh lý của chủ thể được xây dựng qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận, trong các trao đổi giữa các đối tác, từ tin tức tới truyền thông, từ dữ kiện tới chứng từ. Chủ thể còn có năng lượng của tự do tự giải thể qua đấu tranh để chuyển đổi các định chế, để biến đổi các cơ chế, để chuyển hóa các chế độ bất tín, bất tài. Từ đó, chủ thể nhân lên sung lực của mình qua đa tài để đa năng, đa nguyên để đa đảng, nhờ đa năng nên đa hiệu.

Chân dung chủ thể Việt tộc đầy đủ trong nhân cách của Chu Văn An, vang danh với ba phẩm chất: trí cương trực, tâm tiết tháo, đời trong sạch nhưng Ngài không sống thụ động trong vương triều. Ngài dùng ba phẩm chất này để chống bọn tham quan, chống lại sự thối nát đang đe dọa triều đình, đang đưa dân tộc tới hiểm nạn. Vì tham quan-tham quyền luôn là một hiểm nạn trong lịch sử cũng như trong tình hình hiện nay, tham quan-tham quyền có chỗ dựa là bạo quyền để lạm quyền, qua độc quyền do độc tài của ĐCSVN, đang là một quốc nạn. Ngài lấy đức độ với lý luận chặt chẽ, phân tích minh bạch xin vua hãy chém 7 tham quan nịnh thần. Vua không nghe thì Ngài từ chức, về ở ẩn, giữ liêm chính đến cùng, lại còn lấy bút hiệu rất khiêm tốn là: Tiểu ẩn. Việt tộc biết Ngài và luôn mong hiện nay phải xuất hiện thật nhiều Chu Văn An, ở bất cứ nơi nào có tham ô-tham nhũng, vạch mặt chỉ tên bọn “sâu dân, mọt nước”, đã biến một bộ phận lớn của dân tộc thành dân đen, dân oan! Không cần phải chém chúng, chỉ cần giáo dục chúng bằng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của Ngài, chỉ cần giáo dưỡng chúng bằng luân lý sống có trách nhiệm với tổ quốc, sống có bổn phận với nhân dân, đã làm quan thì không thể nào đứng ngoài vận mệnh của dân tộc, lại càng không thể dùng quyền để vơ vét, phải nghiêm minh để nghiêm trị. Trong thời cuộc của Ngài trước đây cũng như giữa thời thế hiện nay, bọn “mượn đầu heo nấu cháo”, luôn thông đồng với bọn “thừa nước đực thả câu”, đồng lõa với bọn “đục nước, béo cò”, chúng móc ngoặc với lũ “thừa gió bẻ măng”, tất cả chỉ là ký sinh trùng, chúng không “yêu nước, thương dân”, ngược lại chúng chính là bọn “sâu dân, mọt nước”. Tất cả bè lũ này, chúng luôn sợ nhân phẩm-nhân cách Chu Văn An, lấy sự thật để làm sáng chân lý, lấy chân lý để nói rõ lẽ phải. Phải có mô hình chống tham quan như Chu Văn An, cho xã hội Việt hiện nay trong đó trí cương trực, tâm tiết tháo, đời trong sạch vừa là lý thuyết luận, vừa là phương pháp luận, để dọn dẹp cho sạch “bọn nội giặc” này, vì chóng chầy chúng sẽ vào con đường “buôn dân, bán nước”. Ngài còn là một người thầy cao quý, gương sáng cho giáo dục, thầy có nhiều học trò giỏi (Phạm Như Mạnh, Lê Quất Đỗ…), còn học trò xấu thì thầy không ngần ngại quở mắng, luôn dạy trò phải biết làm người để nên người. Ngài có tài cao đạo trọng, nhiều người, nhiều nhà xin được học thầy, Ngài nhận trách nhiệm mở trường Huỳnh Cung, kiến thức đi đôi cùng đạo đức. Ngài cũng đã là thầy của hai vua: Hiến Tôn, Dụ Tôn. Ngài còn là tri âm của Trần Nguyên Đán, của Mạc Đỉnh Chi, Việt tộc thương, yêu, quý, trọng Ngài, nên Ngài được thờ ở Văn Miếu, Ngài ơi!

Chủ thể mang tiềm lực của giải trừ qua quyết đoán để quyết tâm dẹp các tệ nạn xã hội, chống lại chuyện lùi bước trước tha hóa, chống lại chuyện tự tha hóa, bởi một ý thức hệ, bởi một bạo quyền. Chủ thể, mang cường lực của tự do tự giải quyết các khó khăn, các trở lực, các ngõ cụt, các suy thoái phẩm chất trong xã hội, trong giáo dục, trong văn hóa, để cùng nhau đi về các chân trời đáng sống, sống mà không chán sống! Chủ thể có mãnh lực của tự do tự giải phóng, bỏ kiếp quy phục cúi đầu, gạt phận khoanh tay quỳ gối, để khẳng định cuộc đời mới thẳng lưng để thẳng đầu, thẳng chân để thẳng thân, sống không những cho lành, cho tốt, mà còn muốn sống sao cho hay, sao cho đẹp.

Chủ thể là hằng số của chính quốc

Chủ thể là cá nhâncá tính, xuất-hiện-để-thể-hiện rồi khẳng định chuyện thay đời đổi kiếp là chuyện khả thi: làm được và phải làm! Như vậy chủ thể biến số phận thành dự phóng, biến cá tính thành sung lực của tương lai, dẫn dắt tự chủ. Chính chủ thể biến ảo thành thực (thực chất, thực tại, thực tế) qua thực tài của chủ thể, biết hành động theo kim chỉ nam của tự do, sống và hành động có trách nhiệm với cộng đồng, vừa có bổn phận với tập thể, vừa có đạo đức với dân tộc cùng lúc có sáng kiến theo dự phóng, có sáng lập cho tương lai, và có chương trình cụ thể qua sáng tạo, để chế tác ra các đạo lý hay, đẹp, tốt, lành.

Hãy nhìn cho ra chân dung chủ quyết của Trần Thủ Độ trong quá trình xây dựng cơ ngơi cho nhà Trần trong Việt sử. Hình ảnh một nhân vật lịch sử gây ra bao tranh cãi, một hình ảnh đôi: công thầnbạo chúa. Không có Thái sư thì sẽ không có nhà Trần, một triều đại thông minh hàng đầu của Việt tộc. Nhưng Thái sư cũng mang hình ảnh một kẻ tàn ác, mang đến cảnh giết chóc, tận diệt đời Lý với phương châm của bạo chúa (nhổ cỏ phải nhổ tận gốc), cũng phải kể thêm chuyện xóa cả họ Lý trong lịch sử mà các nạn nhân nhiều kẻ phải thay thế bằng họ Nguyễn, tạo chuyện nội hôn đã bảo vệ hoàng tộc Trần. Nhưng không thể phủ nhận khi tặng cho Thái sư danh vị: khai quốc công thần, vì không có Thái sư thì không thể có chiến tích lừng lẫy thắng quân Nguyên Mông, cũng sẽ không có luôn: Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tôn, các minh quân đại diện cho văn hóa Việt vững, văn minh Việt sáng, văn hiến Việt bền. Thái sư mang hằng số của chính quốc (vì nước xả thân), mang luôn ẩn số của bạo quyền trong quyết định tới quyết sách với bi kịch Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Trần Liễu… Nhưng trong trường hợp của Thái sư thì hằng số lấp, nhấn, dẫm, đè và đi trên lưng, trên vai ẩn số.

Tình hình của Việt tộc hiện nay đang bị lấp, nhấn, dẳm, đè bởi độc đảng, tạo tham quyền, sinh tham nhũng, mang theo bao suy đồi, bao thoái hóa về đạo đức xã hội, bao bất công đang vùi dập dân đen, dân oan… Trong khi chờ đợi nhân quyền, dân chủ, công bằng tới với số phận Việt, thì trong thâm tâm của đại đa số nhân dân là mong cầu một sự xuất hiện của một minh chúa như Thái sư có quyết định, giữ quyết đoán, nắm quyết sách để thay đời đổi kiếp cho Việt tộc. Vai trò lãnh đạo cá nhân của minh chúa là tiên quyết trong lúc chờ đa nguyên, dù minh chúa đó phải dùng bạo sách như Thái sư, đó là kinh nghiệm của lịch sử. Trong tư duy của một cá nhân lãnh đạo muốn cứu nước-cứu dân là phải mang thân mình ra để xoay chuyển tình thế, và đẩy nó theo hướng thăng hoa. Thái sư đã thuyết phục được vua Trần Thánh Tông, sau khi vua đã bỏ việc nước đi tu tại Yên Tử, là vua phải trở về kinh đô mà nhận nghĩa vụ cứu nước, tiếp theo Thái sư đã thuyết phục được vua, cùng các tướng lãnh khác trong đại họa Nguyên Mông là: đầu của Thái sư chưa rơi thì Thái sư không rời bổn phận cứu nguy dân tộc. Đó là công thần, luôn mang theo công lý “vì nước xả thân”, hiện nay Việt tộc cũng cần một Trần Thủ Độ khai thác triệt để: hằng số minh chúa cứu quốc! Thái sư Trần Thủ Độ nghĩ sao về bọn hèn tướng hiện nay, đông lúc nhúc như ký sinh trùng chung quanh ĐCSVN, chúng lúc nhúc trong Bộ Quốc phòng, Bộ Công an để: tổ chức cờ gian bạc lận để vơ vét tiền tỷ; khi ra trước tòa thì khóc lóc xin tha tội; thú tội là óc chúng bé nhỏ nhưng chúng đầy tham vọng để tham tiền…Việt tộc biết rất rõ là nếu chúng ở trong tay của Thái sư trong hoàn cảnh hiện nay, thì Thái sư sẽ lọc, tẩy, xóa, triệt cho bằng được, vì hoạn kiếp ký sinh trùng của chúng chính là loài sâu dân mọt nước! Mà Thái sư lại là chủ thể chuyên gia khử trừ loài sâu bọ này.

Chủ thể của “lấy trí nhân thay cường bạo”

Chủ thể của hệ khai (khai phóng-khai phá-khai sáng) vì được khai thị, mở mắt nhìn đời bằng ý thức được dựng nên từ tri thức, chính ý thức quyết định ba nền móng cho các định luận về chủ thể: ý thức của tư duy về tự do, ý thức của hành động về tự do, ý thức của đấu tranh vì tự do. Chủ thể có định vị của tự do là đòi hỏi, là đấu tranh, là chủ động để chống lại kiếp khuất phục trước các bất công. Muốn nhận ra chân dung chủ thể Việt tộc, hãy nhìn kỹ để thấy, thấy để thấu nhân dạng của Nguyễn Trãi. Ngài như được đúc kết bởi bao tinh hoa của Việt tộc, phải về Côn Sơn, mới hiểu tại sao đứa con tin yêu này của Việt tộc đã có những hùng lực thông minh lạ thường, để hiểu tại sao Unesco, Liên Hiệp Quốc công nhận Ngài như danh nhân của nhân loại. Ngài có giòng họ chính thống với Trần Nguyên Đán, Ngài đã hít thở trong nhân tri vững nhân trí của Chu Văn An, Ngài thâm trầm trong thâm học với kinh nghiệm của Huyền Quang, một trong ba sư tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài chắc chắn suy ngẫm nhiều tại sao Hưng Đạo Vương vừa tập trận ngay tại Lục Đầu, nơi sáu con sông tụ đầu ngay trên quê hương của Ngài, vừa là nơi mà Hưng Đạo Vương thường lui về để nghĩ ngơi. Hãy tới đền thờ của Ức Trai tại Hải Dương để hiểu vì sao mà đứa con tin yêu của Việt tộc được nhân dân tại đây thương yêu đến chừng nào. Những người dân tại đây hẹn nhau tới đền thờ của Ngài, họ ngồi trò chuyện trong thảnh thơi, thư thả, thong dong, nhàn hạ trên tấm phản, ngay trong đền, trước bàn thờ, dưới chân ngài Ức Trai.

Đây là, tổng kết của nhiều bài học: “ăn ở có hậu”, nên “dân thương, dân nhớ”, “đi người ta nhớ, ở người ta thương” … nhất là đối với các bậc khai quốc công thần. Ngược lại, tham quyền để tham nhũng, lạm quyền để lộng quyền như hiện nay, thì ngày rời cõi đời này, thì người nay và người sau họ “không thương, chẳng nhớ”, mà còn bị họ “rải muối” để không có lối về, không có đất mà dung thân! Ngài để lại đời sau bao nhiêu bài học, trong đó có 5 bài học luôn cận kề với con cháu trong hiện tình đất nước đang bị đe dọa bởi Tàu tặc đe dọa, dân tộc đang bị suy đồi về luân lý, lạc đường trong giáo dục, lầm lối trong xã hội… Chiến lược sáng trong chiến sự, đây là bài học đầu tiên mà ngài đã làm sáng cho thông minh quân sự Việt, Ngài dạy con cháu là chữ nhẫn đi cùng với chữ thời để tạo ra chữ thế. Ngay từ đầu, chữ nhẫn rất rõ, Ngài chờ những năm ròng ở Đông Quan, chờ ngày gặp chúa để cứu dân cho tới nơi, tới chốn; chữ thời và chữ thế, càng rõ hơn, khi Ngài cùng Bình Định Vương cầm cự nhiều năm dài trên núi Chí Linh. Chính lý ngời trong ngoại giao, đây là mặt trận để con cháu thấy rõ Ngài vừa là quan văn, vừa là quan võ, hơn thế nữa Ngài là bậc thầy trên mặt trận ngoại giao, khi chính luận yêu nước Việt chính là lập luận chống tà quyền xâm lăng. Các lá thư Ngài gởi tới bọn tướng giặc, thường không thấy thư trả lời, và nếu chúng có liêm sỉ thì chúng phải cúi đầu khâm phục tài diễn luận và trí giải luận của Ngài về lòng yêu nước của con dân Việt.

Câu chuyện chính lý làm mức độ để nói lên trình độ chính tri trong chính trị, đây là câu chuyện cốt lõi hiện nay của đất nước trước họa Tàu tặc đang cướp biển, cướp đảo ta. Chúng ta chỉ thắng được ngoại xâm nếu ngay trên thượng nguồn chúng ta có đầy đủ kiến thức của chính lý và có trọn vẹn ý thức của chính tri. Tâm lý chiến trong chinh chiến, Ngài cũng là thầy khai minh ra môn tâm lý chiến, tìm mọi cách tác động lên tâm lý kẻ xâm lược. Ngài lý luận rõ cho bọn tướng, bọn lính của giặc là chúng bất chính trong việc đi cướp nước láng giềng, lại chịu cạnh bị đày đọa xa nhà, xa quê. Sống “vất va vất vưởng” nơi quê người, chết trận bằng xâm lăng, thì chỉ là “oan hồn”, thuộc loại “ma bùn” mà thôi! Có tướng giặc, cả binh lính thấy Ngài phân tích đúng (trúng tim gan của chúng), có khi nhận ra hàng, mà ta không cần phải đánh. Ẩn tích để sáng danh, Ngài rút lui về Côn Sơn vì bọn nịnh thần, tham quan làm Ngài “lợm giọng”. Chúng hãm hại Trần Nguyên Hãn, Ngài không những thấy rõ tâm địa của chúng, mà Ngài còn “đi guốc trong bụng” các vua nhà Lê, đồng thuyền trong đồng cam, cộng khổ, nhưng không đồng hội, trong yến tiệc của quyền lực. Đấy cũng là chuyện trình độ đạo lý của Ngài luôn cao hơn mức độ tính toán quyền lực bủn xỉn của các vua, của quan nhà Lê thời đó. Nhưng Ngài không “mai danh, ẩn tích”, mà Ngài ẩn tích để sáng danh, qua văn thơ kiệt xuất trong tâm hồn Việt, văn minh Việt, mà nay đọc lại vẫn thấy ngài rất hiện đại! Nhân tri nuôi văn trí, các bài thơ, các văn bản do chính tay Ngài viết, nhất là Bình Ngô Đại Cáo, làm sáng ngời không những chính nghĩa dày trí dũng của Việt tộc, mà còn làm gốc cho một nhân bản bền vững trong nhân loại: “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo”. Một bài học vô cùng hiện đại sẽ dẫn đưa Việt tôc đi tìm nhân quyền để chống bạo quyềnđộc quyền của độc đảng đang áp đặt trên số phận của Việt tộc. Chân dung chủ thể Việt tộc qua nhân dạng của Nguyễn Trãi, minh chứng Việt tộc là một dũng tộc kiên cường trong đấu tranh để bảo vệ đất nước, xác chứng Việt tộc là một minh tộc thông minh đủ sức đi guốc trong bụng giặc để giữ toàn vẹn lãnh thổ Việt. Trong phương pháp luận soi: lấy xưa soi nay, thì một tập đoàn tội phạm lãnh đạo như ĐCSVN với độc đảng của toàn trị bằng công an trị, nơi mà cái xấu, tồi, tục, dở của hèn với giặc, song hành cùng các trò thâm, độc, tồi, hiểm của ác với dân; thì tập đoàn tội phạm lãnh đạo độc đảng toàn trị là chân dung của lòai phản chủ thể, vì đã phản dân hại nước.

GS Lê Hữu Khóa

Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

 

 

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s