CHUNG-SỐNG-ĐỂ-SỐNG-CHUNG
Đồng bào, như một sự khởi hành cùng nhau, cùng lúc của trăm con cùng mẹ, cùng cha, biết chung sống để sống chung, dù trong cuộc sống có sinh ly, đó là lúc 50 con phải lên phía rừng, 50 con kia đi về phía biển. Câu chuyện chung-sống-để-sống-chung trên quê mẹ đất cha có nội công của sống-vui-để-vui-sống. Không một ai coi hai chữ đồng bào là một loại nhà tù, nhà giam, mà ngược lại, hai chữ đồng bào là sự xuất hiện liên kết của hai phạm trù ngày càng xích lại gần nhau hơn: chung và vui, để làm nên chung-vui. Nhưng chúng ta cũng có những con dân Việt bực, giận, trách, than về dân Việt (dân mình ngu, dân mình dại, dân mình khờ, dân mình không khôn, dân mình không thông minh), tại đây cũng có ít nhất hai loại người. Loại thứ nhất bực, giận, trách, than về dân Việt nhưng không bao giờ bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, giận mà thương, trách đồng bào mà nước mắt cứ rơi, buồn nhưng không bỏ. Loại thứ nhì bực, giận, trách, than về dân Việt với giọng điệu khinh mạt, với lời lẽ phỉ báng, họ sẵn sàng bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, xé lẻ để chơi riêng, tách ra để dễ chuồn khi đồng bào bị lâm nạn, loại này không phải là đồng bào. Vì chính chúng không xem dân tộc là đồng bào, vì chính chúng đã vô tâm nên vô thức, chúng đã vong quốc nên vong thân từ lâu rồi!
ĐÒI HỎI CÔNG BẰNG BẰNG CÔNG LÝ, TỰ DO BẰNG DÂN CHỦ, BÁC ÁI BẰNG NHÂN QUYỀN
Khi kết hợp chính trị học tri thức, xã hội học quyền lực, sử học về phong trào xã hội, tâm lý học quần chúng thì chỉ cần từ 5% tới 10% dân chúng xuống đường đòi hỏi công bằng bằng công lý, tự do bằng dân chủ, bác ái bằng nhân quyền. Thì dân chúng sẽ trở thành quần chúng, sẽ tạo được phong trào xã hội, để trực diện với bạo quyền độc đảng toàn trị. Và khi một phong trào xã hội có quần chúng từ 5% tới 10% bền với thời gian vì sự thật vị nhân sinh, vì chân lý vị nhân phẩm để bảo vệ lẽ phải vị nhân quyền của mình thì không một bạo quyền độc đảng toàn trị có thể sống thọ được!
PHÍA NƯỚC MẮT!
Xó chợ, tôi thấy một thương phế binh, của quân đội miền Nam hay của bộ đội miền Bắc? Lê lết, rũ gục rồi bật khóc giữa trưa dưới nắng thiêu, bụng rỗng không một hạt cơm, tôi nhìn nước mắt đó, tôi sẽ chọn đứng về phía nước mắt! Giữa chợ, tôi thấy một dân lành, một bà mẹ đang đếm những tờ giấy bạc không đủ bữa cơm trưa, lắc đầu, vì biết là ngày hôm nay sẽ không nuôi được đứa con, nước mắt bà mẹ buồn rơi, tôi chọn rõ là mình đứng về phía nước mắt! Trong chợ, tôi nhìn được một dân đen, một công nhân trẻ, da đen đủi, đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương, vừa đưa cơm vào miệng, vừa khóc với tâm sự là tháng này không đủ tiền để gởi về quê nuôi vợ con, vì đại dịch Vũ Hán mà đã mất ngày lao động, tôi nhận ra là mình đang đứng về phía nước mắt! Cạnh chợ, tôi ngồi bên một gia đình dân oan, bị phá nhà cướp đất, màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ… đang mong có được bữa trưa, con cái khóc to, cha mẹ khóc thầm, tôi biết rồi là mình đã đứng về phía nước mắt! Bên chợ, một đứa bé bị ung thư máu trong một ngôi nhà không bóng người, chung quanh em không có ai, em đói, em thì thầm rồi em khóc một mình, tôi biết rồi là mình đã đi cùng nước mắt!
LÝ LỊCH CỦA TỰ DO
Muốn xóa tuyên truyền trị thì nhân lý phải ngẩng đầu. Muốn khử ngu dân trị thì nhân tri phải mở mắt. Muốn tẩy vô học trị thì nhân trí phải tự đánh thức não. Muốn cởi bỏ cái vốn vô học, thì nhân tính cứ đi về phía ánh sáng của sự thật. Muốn vứt bỏ cái vô học, thì nhân bản cứ đi về phía chân trời của chân lý. Muốn rứt bỏ cái vô hậu, thì nhân tâm cứ đi về phía nhân dạng của lẽ phải. Khai thị kiến thức khoa học để thoát vô minh. Khai thác tri thức tự do để thắng vô tri. Khai phá ý thức công bằng để vượt vô giác. Khai phóng nhận thức bác ái để loại vô cảm. Khai quật trí thức dân chủ để bứng vô tâm. Khai minh tâm thức nhân phẩm để khử vô học. Khai sáng tỉnh thức nhân quyền để rời vô hậu…. Con người chỉ thấy được lương tri của mình khi con người trực diện trước bất công để đấu tranh vì công bằng. Con người chỉ nhận được nhân phẩm của mình khi con người trực diện chống bạo quyền để bảo vệ tự do cho đồng loại. Con người đánh đổi nhân vị của chính mình để đi tìm hùng vị của nhân quyền dù chỉ bằng lời nói của nhân tính, dù chỉ bằng chữ viết của nhân lý…. Con người thách đố với nhân kiếp để đi tìm tự do dù chỉ biết tên tự do mà chưa gặp mặt tự do, chính con người phải tự họa chân dung rồi phải tự viết lý lịch của tự do là: tự do!
CÓ DUYÊN, HỢP DUYÊN, THUẬN DUYÊN, NHIỀU DUYÊN…
Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây, ngạn ngữ Việt qua giáo lý Việt vừa có nét duyên dáng của nhân dạng, vừa có chiều sâu nhân nghĩa, cả chiều cao của nhân phẩm, nên câu này vừa là ngạn ngữ vừa là một thi từ mà thi ca của nhân loại phải biết trân quý nó. Riêng trong Việt ngữ, mỗi lần người Việt nhắc tới chữ duyên, là nhân diện tự sáng lên, vì mắt, miệng đều vui lên: có duyên, hợp duyên, thuận duyên, nhiều duyên…. Ngược lại, khi ta buồn mà thốt lên: không duyên, hết duyên, cạn duyên… khi phải chia tay với một người, một nơi, một chốn, một thời điểm, thì ngay trong nỗi buồn chính từ duyên biết an ủi, làm cho ta bớt buồn, hết buồn… đây là phép lạ của phạm trù duyên, luôn có chỗ đứng trung tâm trong trong giáo lý, văn hóa Việt.
TRỢ DUYÊN ĐỂ TRỢ LỰC
Dường như mỗi người Việt sống, suy nghĩ, vui, buồn cùng chữ duyên, nó cứ theo ta mãi cho đến khi ta rời cõi đời này, nó trợ duyên để trợ lực cho chúng ta vượt thoát các thử thách của nhân sinh, vượt thắng các thăng trầm của nhân thế. Phạm trù duyên không hề rơi vào mê tín dị đoan của ngu dân, nó không mang thói tiền trao cháo múc của loại thất đức, nó chẳng đeo khuyết tật tiền nào của nấy của kẻ không có nhân tâm. Nó kỵ loại người chỉ có một toan tính là nồi nào úp vung nấy, để thực hiện tính toán môn đăng hộ đối; nó kỵ tư duy ích kỷ vì nó khinh ý đồ vị kỷ. Một ý muốn toan tính chỉ dựa trên một ý định tư lợi, mà nếu chỉ thấy tư lợi thì không bao giờ gặp duyên, để có duyên, để hưởng duyên. Nếu chỉ thấy tư lợi, nếu chỉ sống bằng vụ lợi, quan hệ chỉ vì quyền lợi để trục lợi thì Tấm sẽ không thành người yêu của hoàng tử được, thì Thủy Tinh sẽ không lấy được công chúa, thì người rừng Thạch Sanh không sao có được người vợ quý phái, sang trọng được….
NẰM TÙ VỊ KỶ
Khôn quá hóa dại, những kẻ tính toán bằng ích kỷ, toan tính bằng vị kỷ thì dại dột trong duyên, dại khờ trong ngộ, nên họ dại suốt trong hạnh, dại dài dài, dại suốt đời, dại suốt kiếp. Những kẻ ích kỷ trong vị kỷ này là những người vô cùng bất hạnh trong nhân sinh, vì họ đi ngang nhân thế mà không thấy được nhân tâm làm nên nhân nghiã! Vì cái ích kỷ làm nên cái vị kỷ chính là nhà tù của họ! Bi kịch của họ là họ đang nằm tù mà họ cứ tưởng họ nằm trong biệt thự, biệt phủ, biệt dinh, đó là âm kiếp của bọn tham quan trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, chúng ngày đêm vơ vét, sống nhờ tham ô, sống bám tham nhũng.
ÂN TUỆ
Ân huệ nằm sâu trong ân tuệ, có tuệ giác dắt dìu tri giác, đưa đón lý trí để trí tuệ của mình được giáo dục rồi giáo dưỡng bởi những người thầy, những người bạn, những đồng nghiệp, luôn biết đại diện cho chân lý sống lâu mới biết lòng người có nhân. Vậy mà mỗi lần sống sót qua thử thách, sống còn qua thăng trầm, chữ ân hiện rõ trong não trạng của ta. Chữ ân âm thầm theo ta cả đời, có trong vũ trụ, có trong thiên nhiên, vì có trong ân tình với đầy đủ tiếng người, vì khi ân huệ đủ, ân tình đầy, thì ân nghĩa vừa ngập, vừa nặng. Chữ ân biến hai thành một, đã là một thì sẽ không bao giờ bị chia hai; vì một là chung, vì một là chia, hiểu chung-để-chia, để thấu chia-để-chung, hiểu quy luật của tình yêu vì đã thấu được quy định của ân.
LÝ TRÍ, TRÍ TUỆ, TUỆ GIÁC
Đồng bào, chỉ có hai từ nhưng ngày ngày trở nên sắc nhọn trong tâm khảm mọi con dân Việt, trước hiểm họa mất nước sẽ bị Tàu tặc đô hộ và đồng hóa, qua liên minh giữa nội xâm độc tài tà quyền bán nước và ngoại xâm quỷ quyền Tàu tà cướp nước. Đồng bào, nội hàm sắc bén sẽ chẻ đôi sự mang trá của ý đồ cõng rắn cắn gà nhà, sự gian manh của mưu đồ dắt voi về dày mả tổ. Tại đây để lộ trong cuộc sống Việt, hai loại người Việt: một loại phục tùng, một loại bất tuân. Loại người Việt phục tùng cúi đầu trước bạo quyền như đã cúi đầu trước thảm họa phản dân hại nước; khoanh tay trước tà quyền như đã khoanh tay trước bi nạn buôn dân bán nước; quỳ gối trước ma quyền như đã quỳ gối trước hoạn cảnh buôn tông bán tổ. Phục tùng để cam chịu trong hèn dạng, để gánh chịu rồi trong nhục kiếp, để rồi tả tơi trước âm binh, trước diệt vong. Loại người Việt bất tuân bằng lý trí của công lý, với trí tuệ của công bằng, qua tuệ giác của tự do, cả ba: lý trí, trí tuệ, tuệ giác xuất thân để bác ái, vị tha, từ bi giữa đồng bào xuất hiện. Nên bất tuân chỉ để dẹp bạo quyền, đuổi tà quyền, triệt ma quyền, nên bất tuân không hề là chuyện nổi loạn vô trách nhiệm, không hề là chuyện nổi giận vắng bổn phận. Trách nhiệm và bổn phận của bất tuân có mặt trong tự do-công bằng-bác ái, cũng chính là nội chất làm nên nội hàm đồng bào.
ĐỒNG BÀO: CUỘC SỐNG THIÊNG
Hai chữ đồng bào, chỉ có hai từ nhưng biết làm nên cuộc sống thiêng mang tinh thuần để giữ trong lành, lấy tinh chất để bảo tồn trong sáng, cùng lúc bảo vệ luôn cuộc sống thường-nhưng-thật, thật trong giáo lý tổ tiên, thật trong đạo lý dân tộc, thật trong luân lý giống nòi. Cuộc sống thiêng của gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau, hoàn toàn nghịch lý, nghịch luận, nghịch chiều, nghịch lối với cuộc sống thường nếu chỉ biết cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc tài, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, thì nó phải chấp nhận mọi hậu nạn cõng rắn cắn gà nhà của loài buôn dân bán nước, vì cuộc sống thường này đã bị nắm đầu xỏ mũi bởi tạp chất của âm binh. Từ đây nội hàm đồng bào sẽ tự tan biến! Thật đáng sợ khi vô tình biến cuộc sống bình thường nhục thành ra cuộc sống tầm thường hèn!
XÓA GIẢI
Đồng bào là hiện thể sinh động vì là rễ của cội tâm linh Việt tộc, hai chữ Đồng bào khẳng định một nội hàm, một giá trị, một tư tưởng hoàn toàn nghịch chiều, nghịch hướng để luôn luôn nghịch lý, nghịch luận với đồng hóa. Vì đồng hóa là ý đồ tới từ ý muốn thâm, độc, ác, hiểm của ngoại xâm để làm xấu, tồi, tục, dở từ nội dung tới nội chất thực thể đồng bào. Mưu ma chước quỷ của đồng hóa luôn đi trên tà lộ của ma đạo tha hóa: Tha hóa để đồng hóa! Tha hóa với sự thông đồng của nội xâm: bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, tà quyền buôn dân bán nước, ma quyền buôn tông bán tổ. Từ đây, con dân Việt phải biết hóa giải ý đồ đồng hóa bằng cách xóa giải ý định tha hóa Việt tộc của ngoại xâm Tàu tặc. Mà quá trình hóa giải để xóa giải có trong phương trình của hệ sáng: lấy sáng kiến phải cứu nước để tự cứu mình, biến thành sáng lập ra các phong trào đấu tranh để giữ nước, để giữ giống nòi mà chống đồng hóa. Tận dụng liên kết giữa sáng kiến và sáng lập để cho ra đời những sáng tạo ngay trong xã hội dân sự bằng tri thức mới: lấy nhân quyền làm văn hiến, lấy dân chủ làm văn minh, lấy đa nguyên để chế tác ra văn hóa đa dũng, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu… Khi hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) kết hợp cùng hệ văn (văn hiến-văn minh-văn hóa) mới này sẽ biến đồng bào thành đồng sáng trong công cuộc cứu nước để giữ nước.
HỆ SẠCH CHỐNG HỆ BẨN
Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích và giải thích sự ra đời hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri); hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin); hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái); hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo); hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp); hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa). Tất cả hệ trên đã, đang, sẽ bị truy, diệt, khử, trừ bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của ĐCSVN, chính là cha sinh mẹ đẻ của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương); hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh); hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).
Giải Luận: Niềm Tin (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).