CẦN LAO VỪA LÀ ĐẠO LÝ VỪA LÀ TRI THỨC LẤY ĐA TRÍ PHỤC VỤ CHO ĐA TÀI
Tất cả sung lực của cần cù trong lao động, chăm chỉ trong công việc, được đưa vào đúng đại lộ của tiềm năng sáng tạo, lấy sáng kiến lao động để thăng hoa sáng chế ra chất lượng của sản phẩm ngay trong cần lao. Cần lao vừa là đạo lý vừa là tri thức lấy đa trí phục vụ cho đa tài; lao động giáo lý vừa là ý thức lấy đa năng phục vụ cho đa hiệu. Trong lịch sử của ĐCSVN, thì các lãnh đạo qua hơn nửa thế kỷ từ ngày thành lập đảng 1930 tới nay, họ không hề có ý thức về cần lao, nhận thức về lao động, vì ngay thượng nguồn họ không hề có kiến thức chính-quyền-hiểu-thị-trường. Tổng hệ luận (chiến trường là thị trường-chiến đấu bằng lao động-chiến thắng bằng cần lao) đã bị tiêu diệt ngay trong trứng nước trong hệ thống độc đảng của chế độ Việt Nam hiện nay, độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề có tri thức quản trị, cộng vào đó là sự tung hoành cho tới tan hoang của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) làm tan vỡ ngay trên thượng nguồn mọi phương hướng và phương pháp để đưa Việt tộc tới tiến bộ và văn minh.
HIỆU QUẢ THỨC KHUYA DẬY SỚM, HIỆU NĂNG MỘT NẮNG HAI SƯƠNG, HIỆU XUẤT ĂN BỮA SÁNG LO BỮA TỐI
Khi chủ tâm với ý đồ của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền là diệt cần lao Việt, đã có trong lao động biết hiệu quả của thức khuya dậy sớm, hiểu hiệu năng của một nắng hai sương, thấu được hiệu xuất của ăn bữa sáng lo bữa tối, để nhận ra an cư lạc nghiệp trên nền của trong ấm ngoài êm. Hủy luôn thông minh Việt đã có trong bản lĩnh giữ nước Việt, có trong nội công lập quốc Việt, thắng bất cứ bạo quốc ngoại xâm nào có thâm ý chiếm đoạt đất Việt, đồng hóa Việt tộc. Diệt luôn sáng tạo Việt đã có trong thành công tại học đường, thành tài trong nghệ nghiệp, thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội khi có được điều kiện hay, đẹp, tốt, lành để thành người. Chuyện này thấy rất rõ trong cuộc sống của Việt kiều tại phương Tây, khi có điều kiện như mọi người, thì sẽ thành danh không thua ai. Không kiêu căng tự phụ hơn người để rơi vào họa vô minh của khinh người; cũng không mặc cảm tự ti để sa với nạn vô tri của nhục kiếp, luôn sáng suốt để bảo vệ nhân phẩm, nên phải luôn tỉnh táo để bảo vệ nhân quyền cho mình, cho đồng bào mình. Việt tộc phải liên kết hai hệ, hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) song lứa cùng hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) để thay đổi nhân kiếp Việt hiện nay. Gạt bỏ đi môt hệ thống toàn trị độc đảng của quan giàu nước yếu, làm ra hệ lụy của nước nghèo dân khổ, để lập lại quy trình bình thường của nhân lý có nhân tri theo hướng thăng hoa của nước giàu dân mạnh.
Ý ĐỒ CỦA TÀ TÂM
Không gian tà quyền này là kết quả của trọn ý đồ của tà tâm được xếp đặt, được dàn dựng, được bày biện như một hệ thống vừa toàn diện, vừa ngặt nghèo để truy diệt hệ thức, luôn bị truy lùng và bóp nghẹn bởi bạo quyền dùng ngu dân để cai trị, nó ngăn chặn kiến thức, để cầm tù tri thức, nó sợ trí thức đánh thức không những ý thức về công bằng, tự do, nên nó mất ăn mất ngủ với nhận thức phải đấu tranh vì dân chủ để có tâm thức vì nhân quyền. Nó đứng ngồi không yên với sự phối hợp muôn hình vạn trạng của phương trình kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tâm thức làm nên tỉnh thức cho một dân tộc, đưa cái tà lẫn cái ngu vào tử huyệt.
Hệ trí, là đối thủ trung tâm của các chế độ dùng ngu dân để thao túng xã hội, chính trí tuệ của dân tộc làm nên lý trí của dân chúng, chế tác ra dân trí để xây dựng nhân trí với thời gian, sẽ là nền móng cho một xã hội đi về phía phát triển, bước về hướng văn minh, phương trình linh hoạt của trí tuệ-lý trí-dân trí-nhân trí là dàn phóng để tạo nên sức bật của sự tỉnh giấc trong quần chúng, khao khát thoát khỏi kiếp nô lệ phản lý trí bằng ngu dân hóa.
VẬN DỤNG NGU DÂN ĐỂ BỊT MẮT, BỊT TAI, BỊT MIỆNG NHÂN DÂN
Hệ luận, là sự trưởng thành của của hệ thức, là bản lĩnh của hệ trí, dùng dữ kiện của sự thật để lý luận, dùng chứng từ của chân lý để lập luận, dùng luân lý của lẽ phải để giải luận, từ đó xây dựng nên diễn luận để tìm đường đi nước bước cho tương lai, trong đó luận được trợ lực bởi lý và trí. Phương trình vừa tri thức, vừa lý trí của hệ luận: lý luận-lập luận-giải luận-diễn luận trong giáo lý của tổ tiên Việt dạy con cháu là so ra mới biết ngắn dài, luôn đi trên vai, trên lưng, trên đầu mọi chế độ ngu dân hóa. Vì tà quyền dùng ngu dân để bịt mắt, bịt tai, bịt miệng nhân dân, nên nó tránh lý luận, né lập luận, trốn giải luận, lách diễn luận để dễ bề tuyên truyền một chiều, nhồi sọ một lượt, xóa não một lần, cho nên tà quyền sợ phân tích chi ly để giải thích cặn kẽ, sợ lý giải chỉnh chu để phê bình tận gốc. Hệ thông, lúc đầu là đối địch, lúc sau là thù địch của tà quyền dùng ngu dân để bưng bít sự thật, vùi lấp chân lý, bóp nghẹt lẽ phải; tà quyền ngại các thành phần thông thái trong xã hội, tà quyền sợ các tầng lớp thông minh trong quần chúng, khi cả hai hùng lực thông thái và thông minh kết hợp lại được, thì dân tộc sẽ thông suốt mọi ý đồ của tà quyền, đó là ngày báo tử của một chế độ dùng ngu dân để thao túng dân tộc.
LƯƠNG TÂM LÀ RỄ CỦA ĐẠO ĐỨC
Hệ lương, trong đó lương tâm là rễ của đạo đức, và lương tri là cội của đạo lý, khi mà lương tri đã trở thành tri thức của lương tâm, thì nó đã là nguồn sống của luân lý lương thiện, chống ngu dân vì ngu dân là xảo trá, chống tà quyền vì tà quyền diệt nhân tri lẫn nhân trí, hủy nhân lý lẫn nhân tính. Phương trình lương tâm-lương tri-lương thiện chính là phương trình đạo đức-đạo lý-luân lý của một dân tộc, của một xã hội được thừa hưởng những giá trị tâm linh cao đẹp của tổ tiên. Tà quyền không có giáo dục của lương tâm, nên sẽ không thấu hiểu là lương tri là sự thông minh chớ không phải sự dại khờ để dễ bị ngu dân hóa, nên không biết lương thiện là sự thông thái chớ không phải sự ngây ngô để dễ bị thui chột hóa. Hệ giáo, nơi mà hệ thống giáo dục dựa vào giáo lý vững để có giáo khoa hay, giáo trình tốt, giáo án lành, làm nên sung lực của giáo dưỡng sâu, biến một cá nhân lành thành một công dân tốt, thành một chủ thể cao có sáng tạo trong xã hội để thăng hoa cho chính mình, cùng lúc đưa dân tộc vào hướng của văn minh, biến văn hóa của tổ tiên thành văn hiến cho nhân loại. Tà quyền khi thao túng, giật dây quần chúng qua ngu dân đã biến một xã hội mang khuyết điểm thiếu tri thức thành một xã hội mang khuyết tật ngay trong nhân tri, nơi mà dân tộc bị tật nguyền ngay trong nhân trí.
CÂM ĐIẾC HÓA NHÂN QUYỀN
Chính tà quyền luôn biến giáo dục thật – giáo lý thật -giáo khoa thật – giáo trình thật – giáo án thật – giáo dưỡng thật thành quái thai mà xã hội Việt, dân tộc Việt đang phải gánh chịu với học giả-thi giả-bằng giả, với cử nhân giả, cao học giả, tiến sĩ giả, chui rúc trong ngu dân, mà không dám lộ đầu trực diện trong học thuật thật-nghiên cứu thật-phát minh thật để có tư duy thật-tư tưởng thật. Hệ nhân, chính tà quyền dùng ngu dân để thui chột hóa nhân tính trong nhân tình, để què quặt hóa nhân lý trong nhân thế, để câm điếc hóa nhân quyền trong nhân sinh. Nhưng cũng chính tà quyền sẽ tự khai tử nó, cùng lúc đào mồ chôn chủ nghĩa ngu dân hóa do nó chế tạo ra để vùi dập dân tộc của nó, khi nhân đạo sẽ mở đường cho nhân tri đi tìm nhân trí. Vì tà quyền là loại khôn quá hoá dại, miệng lanh nhưng đầu khờ, khi dùng cả vú lấp miệng em, vì muốn ăn trên ngồi trốc, mà không đủ nhân từ tới từ nhân nghĩa mà tổ tiên đã dạy cho con cháu: sống có nhân mười phần không khó. Tà quyền không bao giờ có tuổi thọ cao vì nó không có thời gian để hiểu: sống lâu mới biết lòng người có nhân.
NGĂN CHẶN NHẬN THỨC ĐỂ XIẾT NGỘP TÂM THỨC
Hãy phân biệt hai quá trình ngu dân khác nhau bị khai thác bởi tà quyền: ngu dân qua ngu dốt, cụ thể là cấm học hoặc không cho đi học bình thường, đàng hoàng, tử tế, mà chuyện học thuật vì chuyện thức khuya mới biết đêm dài, phải có giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án trong cái đau đáu và đằng đẳng của giáo dưỡng, mà tà quyền không bao giờ dùng thời gian để học tập mà chỉ dùng thời gian để gian lận, xảo trá, ngụy biện, vo tròn bóp méo từ kiến thức tới tri thức, diệt trí thức để hủy ý thức, ngăn chặn nhận thức để xiết ngộp tâm thức, nhờ vậy nên quá trình ngu dân hóa của nó mới tồn tại được. Ngu dân qua mê thức, tà quyền chặn thông tin để què quặt hóa tin tức, ngăn truyền thông để thui chột hóa chứng từ, cấm kiến thức để diệt tri thức. Tà quyền chém sự thật để sự thật không toàn vẹn, tà quyền chặt chân lý để chân lý không nguyên hình, tà quyền đốn lẽ phải để lẽ phải bị khuyết tướng. Tà quyền vùi thực tế để lấp thực trạng. Đưa không đủ tin tức, giao không đúng thông tin, trao không trọn truyền thông nên phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải luôn bị tà quyền làm đui, què, câm, điếc để thế vào đó một phương trình ngược lại gian dối-xảo trá-lừa bịp, nó chính là một loại quái thai xa lạ với nhân tính.
RỨT KIẾP NGU DÂN, DỨT KIẾP NẠN NHÂN
Thượng nguồn của mọi cuộc cách mạng thật sự tích cực, làm thay đời đổi kiếp của nhân loại vì nhân phẩm, đưa nhân sinh vào hướng nhân tính, đưa nhân tình vào phía nhân trí, luôn bắt đầu bằng cách lột mặt nạ tà quyền trong ý đồ tổ chức chế độ ngu dân hóa của nó, từ đó đưa vào lý trí của nạn nhân bị ngu dân hóa ba phân tích chủ lực để nạn nhân rứt kiếp ngu dân, dứt kiếp nạn nhân, để đối diện với tà quyền: phân tích khách quan (chống chủ quan) qua các dữ kiện của quá trình ngu dân hóa; phân tích trung tính (chống quá khích) qua các chứng từ của ngu dân hóa; phân tích khoa học (chống tuyên truyền) qua các hậu quả ngu dân hóa. Chính ba phân tích này sẽ tạo tiền đề cho ba tư duy mới, từ đó sinh ra hành động tích cực để thoát kiếp làm nạn nhân trong một chế độ ngu dân. Đó là ý thức biết mình là nạn nhân của một ý đồ thâm độc là ngu dân, đã cướp đi không những nhân trí mà cả nhân lý làm người bình thường. Đó là nhận thức mình bị thao túng, giật dây bởi một tà quyền dùng chế độ ngu dân qua tuyên truyền một chiều để chỉ phục vụ tư lợi của nó, không những cướp mất nhân tri, mà còn đoạt luôn nhân phẩm của mình. Đó là tâm thức bằng ý nguyện để biến thành ý lực phải thoát kiếp ngu muội, phải vượt số phận nạn nhân của ngu dân, để bền bỉ đòi hỏi nhân cách, bền chí đấu tranh vì nhân tính, vượt thoát ngu dân để vượt thắng tà quyền.
Giải Luận: Xã Hội (P8)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).