Kể từ sau 1975 thì tình trạng văn hóa Việt Nam (VN) như thế nào?
Như chúng ta đã biết đảng cộng sản Việt Nam (CSVN) đặc biệt chú trọng đến lãnh vực văn hóa để kiểm soát tư tưởng quần chúng, nhất là giới văn nghệ sĩ. Một khi hệ thống văn hóa giáo dục của CSVN chỉ là nhồi sọ tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM) và chủ nghĩa cộng sản (CS) rỗng tuếch với loại ngôn ngữ ngu xuẩn do tầng lớp lãnh đạo độc tài nhưng lại khiếp sợ và thần phục Trung Cộng thì sinh hoạt văn hóa Việt không thể ngóc đầu nổi.
Hãy nhìn lại “văn hóa” của miền Bắc trong suốt thời kỳ chiến tranh đã để lại những gì? Tất cả chỉ là cổ võ cho cuộc chiến xâm lăng gọi là “giải phóng miền Nam” qua một số nhạc và sáng tác của các văn nô CS. Hội họa không có, thơ văn chỉ là những sản phẩm ca ngợi chủ tịch, đảng và các anh hùng giả tưởng.
Sau khi chiếm miền Nam thì một số văn nghệ sĩ miền Bắc bắt đầu tỉnh ngộ như Bùi Tín, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Vũ Thư Hiên… nhưng làm sao thay đổi được thời thế đã xuôi dòng? Sự phản tỉnh của những nhân vật ly khai không thay đổi được quá khứ, không thể khiến đảng CSVN thay đổi chính sách văn hóa vong bản.
Một khi hệ thống giáo dục của CSVN trở nên thối nát thì bao nhiêu thế hệ trẻ đã uổng phí tuổi xanh để nam thì đi lao động nước ngoài, nữ thì bán thân cho ngoại quốc để tìm đường sống.
Đặc tính của lãnh đạo CSVN trong văn hóa là dùng ngôn ngữ mất gốc, lai căng, ngược ngạo để ngu dân và kiểm soát tư tưởng (bất cứ ai chống đối hay đòi sửa sai có nghĩa là đi ngược chính sách của đảng, là phản động). Khi mới chiếm miền Nam, CSVN đã chê bai miền Nam dùng tiếng Hán – Việt mà không nói tới những nguyên tắc hay lý do vì sao thành hình hay được sử dụng; trong khi ngôn ngữ Việt cộng chẳng dựa trên nguyên tắc văn phạm hay những điển tích văn học. Nhưng khi cuộc chiến 1979 (biên giới Bắc Việt) và 1988 (ngoài khơi Hoàng Sa-Trường Sa) chống Trung cộng không xong thì CSVN lại quay đầu thần phục đàn anh Phương Bắc thì không những tiếng Hán Việt xuất hiện trở lại vô nguyên tắc, bừa bãi, ngược ngạo như một “thực dân Đỏ” không phô bày trên mặt chính trị nhưng đầy quyền lực, ảnh hưởng trong kinh tế, văn hóa, xã hội…. Khi tiếng Việt mất gốc, tiếng Hán Việt trở nên vô nghĩa thì Hoa ngữ xuất hiện khắp nơi chứ không phải chỉ trong khu vực người Hoa mà thôi. Ý đồ hủy diệt văn hóa Việt và từ từ du nhập văn hóa Hán tộc đã có kế hoạch từng bước rõ ràng. Vì Nga xô đã trở thành nước dân chủ dưới thời Yeltsin nên CSVN phải ôm đít Trung Cộng cho dù Trung Cộng lấn đất, chiếm đảo, cướp biển, giết hại ngư dân thì CSVN cũng không dám lên tiếng phản đối lại, còn cấm cả dân nhắc tên kẻ thù giết dân mà chỉ gọi là “tàu lạ”? Hèn hạ tới mức độ đó thì còn gì gọi là văn hóa Việt nữa?
Khi Hoa kiều tràn ngập VN từ Bắc chí Nam một cách hiên ngang, ào ạt, hách dịch, kiêu hãnh hơn cả khu Chợ Lớn dưới thời VNCH, người Hoa mua các bất động sản lập thành những đặc khu riêng biệt mà ngay cả công an VN cũng không dám đụng tới. Dịch vụ thương mại được quảng bá bằng Hoa ngữ hàng đầu, tiếng Việt chỉ là phụ đề thì chủ quyền VN ở đâu?
Khi ngôn ngữ VN trở thành vô nghĩa ấm ớ thì làm sao tuổi trẻ viết văn, ăn nói cho ra hồn. Đó là chưa nói đến sự suy nghĩ, sáng tác không được tự do sáng tạo mà phải qua sự kiểm soát của bộ văn hóa vốn đã không có văn hóa vì Đảng đã thất học. Từ tiểu học, trung học đã không có văn hóa thì đại học sẽ học cái gì?
Khi CSVN mở cửa giao thương với thế giới thì cũng cho con cái du học nước ngoài (nhất là Mỹ, kẻ thù mà đảng CSVN đã chống suốt cuộc chiến Nam-Bắc). Nhưng khi thành tài và trở về VN thì lớp trẻ du học hoặc là không chấp nhận chế độ và đi ra nước ngoài luôn, hay nhắm mắt tiếp tay cha anh bóc lột dân tộc. Mặc cảm thất học đã khiến các quan chức chính quyền trong nước thi nhau mua bằng cấp cho giống thiên hạ. Chỉ trong vòng vài năm các viên chức chính quyền, đảng với hàng chục năm “chống Mỹ” trong chiến khu đã có trình độ tiến sĩ, cao học mà không hề tới trường một ngày nào.
Sự kiện rõ rệt nhất các các lớp trẻ từ VN ra nước ngoài sinh sống, tiếp xúc với cộng đồng VN thì họ muốn hòa nhập với khối người Việt tự do và đã tự hỏi “tại sao các anh chị ăn nói hay quá vậy? Làm sao tụi em học hỏi được như vậy?” Văn hóa không phải chiếc áo mặc lên là xong. Văn hóa là ngôn ngữ và sinh hoạt, tổ chức. Ngôn ngữ không chính xác (chính danh) thì hành động không rõ ràng thì kết quả và ảnh hưởng sẽ không có.
Hãy nhìn vào lãnh vực sách vở, văn nghệ.
Một thí dụ dễ thấy là văn nghệ: nhạc.
Sau 21 năm cai trị miền Bắc, nhạc Việt có gì ngoài những bài ca ngợi đảng, xúi giục thanh niên “chống Mỹ”, “giải phóng miền Nam”, hy sinh xây dựng xã hội chủ nghĩa và khi thành công thì không ai còn nhớ gì ngoài bộ máy tuyên truyền của Đảng. Cũng như sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm thì các văn nghệ sĩ miền Bắc tê liệt sáng tạo và giới cầm bút từ đó hoàn toàn là bồi bút của Đảng.
Sau khi chiếm miền Nam, đảng CSVN đã mở chiến dịch càn quét văn hóa Mỹ Ngụy bằng cách thu hồi các văn hóa phẩm của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và cấm phổ biến, xuất bản (nhưng vẫn giấu để dành cho đảng “nghiên cứu”). Nhưng văn hóa là món ăn tinh thần không phải là vật chất, có thiêu đốt cũng không thể biến mất. Nhạc Vàng của miền Nam trở nên bất tử trong dân gian và lưu truyền cho đến khi đảng CSVN không thể chối cãi được và phải chấp nhận sự hồi sinh cùng với các tác phẩm văn chương dưới thời VNCH. Cũng chỉ vì khi mở cửa với thế giới bên ngoài 1996 thì CSVN chẳng có gì để nói chuyện với thế giới về văn hóa VN.
Văn hóa, văn nghệ là sự sáng tác bởi lòng người. “Tư tưởng HCM” chỉ là sự ăn cắp vặt (cũng như tư tưởng của Mao, Mác gọi chung là XHCN) vừa ngu, vừa dốt làm lãnh đạo độc tài thì chẳng ai muốn sáng tạo trong tinh thần nô lệ, máy móc. CSVN quên rằng để “vừa Hồng, vừa Chuyên” đòi hỏi kiến thức tổng quát từ một nền giáo dục khai phóng từ những con người có Tài (Chuyên) có đức (Hồng) nhưng đó không phải là chủ trương của CS quốc tế. Chủ trương của đàn anh Nga-Hoa chỉ muốn biến CSVN thành tay sai và tay sai thì không thể khôn ngoan hơn đàn anh hay lãnh đạo. Khi mọi người dân, cán bộ, viên chức trở người máy, hình nộm thì “xã hội chủ nghĩa” trở thành xã hội “ma” không có sinh khí (như khi học tập hay sinh hoạt thì mỗi khi viên chức Đảng, chính quyền dứt tiếng là cả đám đông vỗ tay như máy. Đó không phải vì hay, đúng, ích lợi mà chỉ vì nếu không vỗ tay nhiệt liệt sẽ bị quy tội phản động) và không có ý kiến. Ý kiến phê bình hay phản đối sẽ không xảy ra (vì sẽ bị đàn áp, thủ tiêu) mà nếu ủng hộ cũng chỉ là vuốt đuôi vì nhân dân không thể “khôn” hơn cán bộ Đảng.
Kể từ sau 1975 các nghệ sĩ trong nước có sáng tác được bản nhạc nào ra hồn? Suốt 47 năm thống nhất đất nước nhạc cộng sản chỉ đẻ ra được “Hoa sữa”, “Đắp mộ cuộc tình”… là có thể lê lết ra được cộng đồng hải ngoại nhờ đám Việt kiều về du lịch ăn phải bả CS nên cố rên rỉ tuyên truyền. Còn đa số nhạc Việt sau này chỉ nhai lại những di tích của VNCH về tình anh lính chiến, người đi kẻ ở lại hậu phương, sự chia ly trong tình yêu và bổn phận…. Sự lặp lại trở nên trơ trẽn vì thực tế xã hội đã không xảy vì đất nước đã hòa bình bao năm rồi?
Tại sao không có những bản nhạc về anh bộ đội bảo vệ biên giới phía Bắc, đã hy sinh chống Tàu? Những anh hùng hải quân VN tử trận trên biển Đông để bảo vệ đảo Gạc Ma (1988)? Đó là thực tế, thì dân gian mới lưu truyền.
Cũng là chuyện xã hội, tại sao không có những tập truyện về những cô gái bán thân cho ngoại quốc để cứu gia đình khỏi chết đói vì không có sinh kế? Tại sao không có chuyện viết về các thanh niên đi lao động nước ngoài bị bạc đãi, giết hại, tù đày?
Tại sao không có ai viết sách về những Việt kiều về nước ăn chơi, hưởng thụ trên đau khổ của dân tộc? Về những tham nhũng của chính quyền? Về những cuộc đấu tranh của dân nghèo từ Nam chí Bắc?
Đó là thực trạng xã hội VN mà văn hóa là để ghi nhận diễn biến cuộc sống của con người. Đảng CSVN không muốn các nhà văn, nghệ sĩ ghi nhận lại thực trạng xã hội qua văn hóa phẩm nên bộ Văn Hóa làm việc phản văn hóa: kiểm duyệt.
Khi văn nghệ bị cấm đoán, kiểm soát thì không ai sáng tác nữa; họ chỉ làm theo đơn yêu cầu của đảng. Dĩ nhiên sản phẩm do đảng chỉ đạo chỉ là quái thai thời đại vì ngô nghê, ngớ ngẩn, vô duyên và nhạt nhẽo.
Trong khi Nam Hàn tạo nên những loạt phim xã hội qua truyền hình đã ảnh hưởng sâu đậm trong xã hội Trung Cộng và thế giới và đó là sức mạnh của một dân tộc. CSVN thường khoe khoang thành quả kinh tế nhưng đó chỉ là nền kinh tế gia công cho tư bản nước ngoài mà tinh thần dân tộc chỉ là con số không khi văn hóa Việt bị hủy diệt vì “văn” bất thành cú (câu), “hóa” không thành hình. Vậy thì văn hóa VN không còn chỗ đứng hay sao? “Tiếng Việt còn, nước Việt còn”. Khi văn hóa, nhạc, điệu vũ, phim ảnh ảnh VN bắt đầu pha trộn tinh chất Tàu (Hán hóa) và nhà nước CSVN làm ngơ có nghĩa là CSVN đang bán tinh thần dân tộc cho ngoại bang. Đó là tình hình văn hóa VN trong nước và đó là công lao bán nước của CSVN.
Tại hải ngoại, những người cầm bút gốc Việt vẫn tiếp tục sáng tác bằng tiếng Việt hay Anh ngữ cũng như nhạc, phim ảnh, hội họa… nhưng các sản phẩm này có được bảo tồn và phát huy hay chỉ là những nỗ lực đơn độc của một vài cá nhân?
CĐVN thiếu một chủ trương, chính sách bảo vệ văn hóa Việt hải ngoại (một sự tiếp nối của nền văn hóa tự do dưới thời VNCH) mà đó chính là xương sống của dân tộc Việt. Những ai hoạt động chính trị (các đảng phái) phải nhìn thấy đó là cái gốc để quy tụ người Việt (trong và ngoài nước) còn quan tâm đến vận mệnh dân tộc vì tương lai dân Việt không phải chỉ là sự thay quyền cai trị đất nước mà là sự quy tụ sức mạnh dân tộc để vươn lên trong cộng đồng thế giới. Cho dù có sự cởi mở văn hóa từ chế độ CSVN (cho phổ biến văn hóa phẩm thời VNCH) nhưng thiệt hại đã xong. Đã mấy thế hệ người dân trong nước sử dụng ngôn ngữ Việt cộng sẽ đối thoại với CĐVN hải ngoại (ngôn ngữ VNCH) như thế nào?
Đó là trình độ văn hóa VN thế kỷ 21.
Văn hóa còn bao hàm giáo dục. Giáo dục là khởi điểm và chung điểm của chính trị. Nếu ngôn ngữ Việt suy đồi sẽ không có văn hóa Việt. Văn hóa Việt không thể giảng dạy bằng Anh ngữ. Văn hóa Việt không thể chỉ tồn tại bằng “nhạc vàng” dưới thời VNCH hay qua áo dài, chả giò, bánh mì thịt, phở…. Văn hóa Việt phải sống với con người qua thời đại.
Ai sẽ gánh vác công việc đó?
Chắc chắn sẽ không phải là Thúy Nga Paris, Asia, Amazon (in và bán sách) hay trường Việt ngữ Thăng Long.
Trần Công Lân
Tháng 11 năm 2022 (Việt lịch 4901)