Não Luận: Sáng (P2)

Sáng tác thường xuyên
Sáng tác trong nghệ thuật, sáng chế trong lao động, sáng lập trong các sinh hoạt của xã hội dân sự, chính là dàn phóng của nhân tri để nhân trí thăng hoa là những chỉ báo cụ thể của một chế độ dân chủ. Mà dân chủ tới từ đa nguyên luôn chuyển tải đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu qua sáng tác, sáng chế, sáng lập tạo chuyển hóa tích cực ngay trong não bộ, tạo chuyển hóa thường xuyên ngay trong não trạng.
Định luật của sáng tác, sáng chế, sáng lập là thay đổi tích cực hiện tại để tương lai được nhập nội vào nhân lộ hay, đẹp, tốt, lành của nhân phẩm. Nhưng ngược lại não bộ đi tìm tiến bộ là loại não trạng thì luôn bị tác động bởi quá khứ, bám vào lịch sử nhưng lại bất lực khi phải toan tính cho tương lai gần, sống với ký ức nhưng bất an khi phải tính toán cho tương lai xa. Đây là sự khác biệt một trời một vực của các não bộ tự chủ và tự tin với sáng tác, sáng chế, sáng lập, luôn ngược chiều và luôn đối kháng với loại não trạng tiếc xưa nhớ cũ, quẩn quanh với quen thói đường mòn của ngựa quen đường cũ.
Nhân kiếp nhàm chán trong tẻ nhạt, với sớm, trưa, chiều, tối, chỉ biết lập đi lập lại một cách dễ dãi chuyện thường nhật vô thưởng vô phạt, loại người này, tránh vận não, để lách động não, để trốn vắt não. Một chính quyền thông minh một dân chủ thông thái muốn thay đời đổi kiếp dân tộc theo hướng thăng hoa, biết dứt khoát rời, rũ, buông, bỏ với loại não trạng này chỉ biết mang số kiếp chờ sung rụng, số phần gà què ăn quẩn cối xay. Những động cơ của sáng tác, sáng chế, sáng lập phải dựa trên gốc, rễ, cội, nguồn của tri thức về sự thật, trí thức về chân lý, nhân trí về lẽ phải, đây là những định đề của sự chuyển hóa tích cực của não bộ phục vụ sáng tác, sáng chế, sáng lập:
– Sự chuyển hóa tự nhiên, nơi mà tất cả sinh vật, đều được hoặc chịu sự chuyển hóa tự nhiên, hàng ngày, tất cả đều phải chịu sự chuyển hóa qua thời gian và không gian. Chân lý của định đề sinh, lão, bịnh, tử khi được hiểu đúng rồi, thì mỗi chủ thể phải thấy cho thấu là cuộc đời của mình rất ngắn ngủi, và ta phải làm gì cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, để có một nhân sinh đầy giá trị. Một câu hỏi được thi sĩ Vũ Hoàng Chương mô hình hóa bằng thi luận: “Ta làm chi đời ta?”, đây là thượng nguồn của quy trình sáng tác, sáng chế, sáng lập, cụ thể là đang sinh sống tức là đang sáng chế, tức là đang chủ động chuyển hóa.
– Sự phản chuyển hóa của quá khứ, không ai thay đổi được quá khứ, ký ức, lịch sử, vì ta không thể thay đổi những gì đã xẩy ra: bạo quyền công an trị đã giết người, tà quyền tham nhũng trị đã cướp của, ma quyền tham tiền trị đã phá nhà, cướp đất… biến dân chúng, dân lành thành dân đen, dân oan… Chúng ta không thay đổi được quá khứ của chế độ vô học trị đã ngu dân hóa dân tộc, của ý thức hệ bạo lực trị đã gây bao lầm than cho Việt tộc. Nhưng chúng ta phải học bài học của lịch sử để tái tạo lịch sử tương lai bằng cách nhân tính hóa lịch sử, là làm ngược lại, cụ thể thay bạo quyền bằng nhân quyền, thay ngu dân trị bằng tri thức trị.
– Sự chuyển hóa tất yếu, khi mà chúng ta phải bắt buộc thay đổi để tồn tại, bó buộc chuyển đổi để sinh tồn trong thử thách bịnh tật, thiên tai, trong thăng trầm của nghèo đói, lạc hậu. Trước tất yếu bịnh tật, thiên tai, nghèo đói, lạc hậu, khoa học lẫn kỹ thuật vẫn cung cấp cho nhân sinh một cuộc sống ngày càng nhiều tiện nghi, y khoa vẫn bảo vệ ngày càng tốt hơn sức khỏe của nhân sinh, liên tục làm tăng tuổi thọ của nhân loại
– Sự chuyển hóa tích cực, khi con người nhận ra nếu không chuyển hóa tức thì sẽ bị tai ương hủy diệt, nếu không chuyển biến tức khắc thì sẽ bị bất công nuốt chửng. Lấy sáng kiến để tạo sáng tác, sáng chế, sáng lập chống lại tai ương của dịch bịnh, chống lại bạo hành của bạo quyền. Sự chuyển hóa tích cực chống lại loại triền dốc đi xuống của nhân sinh, đang lao vào vực thẳm, nếu không tỉnh thức thì chắc chắn là thiệt mạng.
– Sự chuyển hóa tích cực đóng dấu hay, đẹp, tốt, lành cho nhân sinh, mang dấu ấn cao, sâu, xa, rộng cho nhân quyền. Nó hoàn toàn ngược lại với sự chuyển hóa tiêu cực đã xấu, tồi, tục, dở rồi, giờ lại lao mình như con thiêu thân để thành quỷ, ma, tà trong thâm, độc, ác, hiểm. Và trong bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay, Việt tộc đang trên triền dốc đi xuống của xấu, tồi, tục, dở, và đang lao thân vào vực thẳm của thâm, độc, ác, hiểm của loại tà quyền buôn dân bán nước.
– Sự chuyển hóa cùng tha nhân, nếu chuyển hóa chỉ một thân thì không sao xoay chuyển được tình hình, nếu chuyển hóa chỉ một mình thì không sao xoay dời được thời cuộc. Khi cùng chuyển hóa với tha nhân thì chính sự hợp tác với tha nhân làm nên cái chung trong đồng cam cộng khổ và cái chung này sẽ là cái chia trong đồng hội đồng thuyền với tha nhân, nơi mà đoàn kết và tương trợ sẽ tạo được thành công.
– Sự chuyển hóa được tuyển chọn, nếu chuyển hóa là tự nhiên, là tất yếu, là hiển nhiên, thì khi cá nhân định vị mình như chủ thể đang làm chủ cuộc đời của chính mình. Chủ thể này phải chọn lựa những quyết định, phải tuyển chọn những hành động, phải tuyển dụng những hành tác hợp với sự thật, chân lý, lẽ phải bằng nhân bản, nhân tri và nhân quyền. Từ đó, chuẩn bị một tương lai ít xấu, tồi, tục, dở, và luôn mong cầu được tiếp cận với nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành. Mà nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành đã có ở thượng nguồn, đó chính là lý tưởng, là hoài bão, là dự phóng về một nhân vị cao, sâu, xa, rộng.
– Sự chuyển hóa sâu rộng vì nhân sinh, nơi mà các chủ thể đại diện cho văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền luôn có mặt trong các lĩnh vực khác nhau từ khoa học tới kỹ thuật, từ chính trị tới kinh tế, từ văn hóa tới giáo dục. Đó là những chủ thể nhìn xa trông rộng, dám nghĩ và dám làm vì mục đích cao cả là phục vụ nhân quyền vì nhân phẩm. Các chủ thể này tổng hợp được công việc chuyên môn của mình để chế tác ra những nhân sinh quan, để chế tạo ra những thế giới quan, để hành tác bằng những vũ trụ quan đứng đắn biết bảo vệ từ môi trường tới môi sinh. Không những biết tự thay đổi cuộc đời của họ mình mà chuyển hóa cả nhân loại theo hướng chuyển hóa sâu rộng qua nhiều thế hệ, qua nhiều thế kỷ.
– Sự chuyển hóa để tìm ra chính mình, khi vào quyết tâm chuyển hóa não bộ, khi vào quyết đoán thay đổi não trạng, trên nhân lộ đi tìm văn minh vì nhân phẩm, thì các chủ thể sẽ tự nhận ra mình. Nhận ra chính mình với ý nguyện sống sao cho có ý nghĩa, làm nên ý lực sống sao cho có trí lực, để đưa cuộc đời của chính mình cùng với tha nhân để vào nhân lộ văn minh. Một nhân lộ có đồng bào, đồng loại cùng với mình, tất cả nhận ra nội công của nhân quyền, bản lĩnh của nhân bản, tầm vóc của nhân vị.
– Sự chuyển hóa biết giữ gìn tiền đồ, trong đó có vốn liếng của dân tộc, có di sản của tổ tiên, có tài nguyên của đất nước không những phải được bảo trì mà phải vận dụng sự chuyển hóa tích cực để bảo quản cho bằng được những gì mình đã có, đang có. Từ đó cái mình sẽ có sẽ bồi đắp, bồi bổ, bồi dưỡng cho những gì mình đã có, đang có. Một chính quyền tới từ sự thông minh của đa nguyên, tới từ sự thông thạo của dân chủ, tới từ sự thông thái của nhân quyền là một tập hợp của các chủ thể biết tiến tới tương lai, biết đi tới chân trời, cùng lúc biết cõng, bống, bế, ẵm một cách nâng niu và trân quý cơ ngơi của tổ tiên, dân tộc, đất nước.
– Sự chuyển hóa cùng các giá trị phổ quát và vĩnh hằng, qua nhân sinh quan cùng thế giới quan của những chủ thể biết tôn trọng các giá trị thiêng liêng của nhân loại, các giá trị tâm linh của dân tộc, các giá trị đạo đức của nhân phẩm, mà ta phải giữ cho bằng được các giá trị này trong suốt quá trình chuyển hóa dù phải qua bao thử thách, bao thăng trầm, bao trầm luân. Hãy hiểu tới cùng các cuộc biến thiên, làm thay trời đổi đất, để thấy cho thấu là qua vật đổi sao dời các giá trị nhân bản làm nên nhân vị vẫn luôn tồn tại và được vun đắp ngày càng phong phú hơn.
– Sự chuyển hóa theo ước nguyện ban đầu, với thủa ban đầu của một hoài bão đẹp, một lý tưởng cao, một mong cầu đất nước thanh bình với một dân tộc được sống trong một nhân loại thái hòa. Ước nguyện thủa ban đầu là ước nguyền triền miên của một nhân sinh quan không ích kỷ đóng cửa để thụ lợi, không vị kỷ đóng kín để tư lợi, mà hành động vì đồng bào, hành tác vì đồng loại. Biết hợp tác với tha nhân để làm rộng nhân thế, làm cao nhân bản, làm sâu nhân tâm. Sinh và sống với não bộ luôn ở tuổi thanh niên dù hiện nay đã qua tuổi thanh niên, đã quá tuổi thanh xuân nhưng luôn trẻ trung từ tư duy tới hành động bằng những dự phóng cho tương lai, bằng những dự án cho các thế hệ mai hệ. Trẻ trong não bộ để không già trong não trạng, đây là thử thách thông minh cho một chính quyền sáng tạo, mong muốn có một chính thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền với não bộ của sáng tác, sáng chế, sáng lập.

Sáng tạo thường trực
Sáng tạo thường trực không hề là sáng tạo vô lý trong vô luận, mà sáng tạo trên một hệ lý luận chỉnh lý cho tương lai, khi bạo quyền độc đảng toàn trị sụp đổ, thì một minh chủ tạm thời nắm quyền hay một chế độ dân chủ thật sự ra đời. Muốn não bộ chuyển biến tích cực, não trạng chuyển hóa linh động thì phương pháp luận nhận định tương lai cho dân tộc là tiền đề tiên quyết, nội dung tiền đề này có gì? Ý nghĩa của nó ra sao? Tư tưởng của nó thế nào trong những năm tháng trước mắt?
– Nhận thức về thời gian, mà thời gian tính đã được thay đổi, hàng ngày, bị biến đổi liên tục với những khám phá mới của khoa học, những ứng dụng mau của kỹ thuật. Cùng lúc truyền thông với vận tốc tức thì, trên quy mô toàn cầu hóa, thì cách sống hằng ngày và các tiếp cận với tin tức của con người cũng bị thay đổi với vận tốc khám phá của khoa học, ứng dụng của kỹ thuật.
– Tâm trạng bất an, trong một nhân loại khai thác tối đa năng lượng để sản xuất, tiêu xài năng lượng ngày càng nhiều để xây dựng, cụ thể là hủy năng lượng và cùng kiệt hóa năng lượng thiên nhiên cùng lúc gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Mà trong tương lai không xa, trong 9 tỷ người khoảng 2030, thì có ít nhất 1 tỷ người là nạn nhân và sẽ là lực lượng tị nạn khí hậu, rời bỏ các vùng cận biển đi di dân, rồi nhập cư qua các quốc gia, các châu lục chưa là nạn nhân của mặt biển dâng từ biến đổi khí hậu.
– Thay đổi quan niệm về tiến bộ khoa học, rời bỏ quan niệm khoa học luôn làm nên văn minh cho nhân loại, cũng thay đổi trước các thực tế mới: nỗi lo về chiến tranh nguyên tử, hóa học, cộng thêm nỗi lo về ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh hiện nay…. Tất cả sẽ tạo ra một tâm lý tiếp nhận tiến bộ khoa học với sự thận trọng, có sáng suốt trong nhận định, có tỉnh táo trong quyết định. Được hình tượng hóa qua hiện cảnh con người luôn yêu quý thiên nhiên, nhưng cùng lúc biết phòng xa trước các thay đổi khó đoán trước được của thiên nhiên. Vẫn yêu rừng, núi, biển, nhưng vào rừng, leo núi, ra biển với các phương tiện vi tính để định vị, và điện thoại thông minh để liên lạc với các hệ thống cứu nguy và bảo hiểm.
Từ đây, tương lai học có chỗ dựa của các ngành khoa học chính xác và thực nghiệm, cùng các khám phá của các ngành khoa học mới: khoa học não bộ, khoa học thần kinh, đã biết đi tới một khoa học luận có tri thức luận làm nền tảng để tới các lập luận sau đây:
– Phương án dài hạn để cứu nguy, đây là luận điểm của tương lai luận, cụ thể là nhân loại chỉ có thể tự cứu mình với những phương án dài hạn, thay đổi thói quen của não trạng, biến đổi đường mòn của não bộ qua các phương án cứu nguy, đi tới trong thế thăng bằng và đi tới bằng các chương trình dài hạn. Được cụ thể hóa qua biểu tượng của một nhân loại đang chơi các trò chơi thể thao thăng bằng (đi xe đạp, trượt tuyết, trượt sóng, trượt băng) nếu muốn không ngã, không té, không rớt thì phải đi tới, tiến tới với lý trí của chương trình, trí tuệ phương án, tuệ giác của đồ án tới cả phục vụ cho tương lai lâu dài.
– Phương án dài hạn với nhân bản, của một nhân loại có nhân tri sáng suốt, có nhân trí tỉnh táo, trong nhìn xa trông rộng, tiếp nhận khám phá khoa học với sự thận trọng về ý nghĩa của nó có đóng góp gì không cho nhân phẩm, tiếp đón ứng dụng kỹ thuật với sự cẩn trọng về nội dung của nó có trao truyền tích cực gì không cho nhân quyền. Khi con người biết đặt ra các câu hỏi chỉnh lý này để bảo vệ nhân bản và nhân vị, thì con người phải suy nghĩ về những phương án dài hạn vì nhân bản. Khi Descartes ra luận thuyết con người phải làm chủ thiên nhiên để xây dựng hạnh phúc và tự do của mình bằng các phương tiện của khoa học và kỹ thuật; thì sau ba thế kỷ tư duy trong não bộ của con người đã thay đổi rất nhiều. Giờ đây, con người không muốn làm chủ thiên nhiên để tàn phá thiên nhiên, mà muốn sống chung, cùng lúc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, môi sinh như chính bảo vệ nhân phẩm của mình.
– Phương án dài hạn về nhu cầu cơ bản, chính nhân loại phải có phương án rõ ràng và rành mạch về nhu cầu của mình, đủ xài để đủ sống, chớ không được hoang phí thiên nhiên, lãng phí năng lượng, phung phí tài nguyên. Một quan niệm đứng về nhu cầu căn bản của mình là một phương án vừa cụ thể cho hiện tại, vừa thiết thực cho tương lai khi các câu trả lời chỉnh lý về nhu cầu sẽ vạch ra nhân lộ mà còn người muốn tới. Một nhân lộ văn minh, không tiêu xài bừa bãi, không thiêu hủy năng lượng lẫn môi sinh một cách vô tội vạ, không vung tay quá trán, không lãng phí lương thực lẫn tài nguyên.
Thảm trạng của Việt tộc hiện nay, thảm kịch của đất nước Việt hiện giờ, là bạo quyền độc đảng toàn trị trong tay ĐCSVN đã và đang làm ngược lại 3 loại phương án này. Cụ thể là không có chính sách cứu nguy dân tộc, không có quốc sách nhân bản vì giống nòi, không có quyết sách về các nhu cầu cơ bản. Mà ngược lại, dân tộc chỉ thấy một tập đoàn lãnh đạo bán tài nguyên cho Tàu tặc ngoại xâm, tiêu hoang thiên nhiên, xài phí môi trường, với cây rừng nguyên sinh thành vật liệu xây cất và trang trí các biệt dinh, biệt phủ, biệt thự của các lãnh đạo, đã vào lộ trình buôn dân bán nước.
Chuyển hóa não bộ là tất yếu, chuyển biến não trạng là tự nhiên, trong quy luật của những ai biết sống còn, sinh tồn, mà còn biết thăng hoa ngay trong kiếp người này, và không đợi một ý thức hệ hứa hẹn ảo để gian trá hóa nhân kiếp, không để một bạo quyền độc đảng toàn trị điếm nhục hóa nhân phẩm của mình mà phải có ít nhất hai định hướng bằng:
– Tương lai luận ngay trên nhân bản, nhân văn, nhân lý, nhân tính của mình bằng những dự án cùng những dự phòng biết bảo vệ nhân tri, nhân trí, nhân vị, nhân quyền của mình.
-Tương lai học ngay trên nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân giáo của mình bằng những phương án cùng những phương sách biết bảo trì nhân đạo, nhân cách, nhân ái, nhân phẩm của mình.
Từ đây, chỉnh lý trong đề án, hợp lý trong thảo luận, toàn lý trong quyết định, để tìm cho ra một cuộc sống vì nhân quyền, mà phục vụ cho một cuộc đời biết vì nhân phẩm.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s