TỰ: Tự tin vì nhân vị. Tự chủ vì nhân trí. Tự trọng vì nhân phẩm. Tự do vì nhân quyền
Tự tin vì nhân vị
Tự tin là rễ của tự do, khi tự tin là phải ngẩng đầu mà không cúi đầu nữa, phải thẳng lưng mà không khom lưng nữa, là phải cứng cườm tay mà không khoanh tay nữa, mà phải đứng lên để đi tới và không chấp nhận quỳ gối nữa. Tự tin đứng dậy để đi về phía nhân vị mà nhận nhân phẩm, thì tự tin là nội lực làm thay đổi não trạng nô lệ, nô bộc, nô dịch; có tự tin vùng lên mà chặt xiềng, mới có não bộ tự do để giải phóng chính nhân kiếp của mình, mà đi về phía chân trời của nhân quyền, để nhân bản được thăng hoa.
Không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự tin đứng lên chặc xiềng để chế tác ra tự do biết tự giải phóng chính nhân kiếp của mình, thì tự tin được vận hành trong ý nguyện của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, quỷ quyền ngu dân trị…
Không nên ngừng ở quan niệm tự tin chỉ là rễ của tự do, mà hãy đi thêm bước nữa để thấy tự tin là nội lực để tự do có hùng lực mà đòi hỏi công bằng, mà đấu tranh vì công lý. Nơi đây, tự tin chính là nội công tự biết sạch hóa não bộ, trong lành hóa não trạng để đi tới mà tiếp nhận những vùng ánh sáng mới của tri thức, nơi mà tự do mở ra hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức. Tự tin đi tìm tự do chính là nội lực làm thăng hoa cá nhân, làm thăng tiến tập thể, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự tin ngay trong não bộ chế tác ra hành vi trong sáng ngay trong não trạng. Khi chúng ta là những Việt kiều xa quê hương nhưng không bao giờ quên quê hương, lại bị các công an cùng hải quan đã có lý lịch của chúng ta là những chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền, thì sẽ bị bọn này chặn hỏi ta ngay những bước đầu tiên của chúng ta ngay tại phi trường: “Anh về Việt Nam làm gì? Ở đâu? Bao giờ rời Việt Nam?”. Thì câu trả lời tự tin vì nhân vị để tự do cá nhân được nói lên tiếng nói của nhân quyền: “Tôi là người Việt Nam như anh, anh biết anh phải làm gì, và tôi biết tôi phải làm gì! Tôi cũng như anh, đều là người Việt Nam trên đất Việt, tôi cũng có quyền làm người Việt Nam như anh vậy! Còn bao giờ tôi rời Việt Nam, thì tôi cũng có quyền đi và ở đúng theo quy định của luật pháp!”.
Tự tin xây lên tự do là trụ cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, hành động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân trong đạo đức với xã hội. Và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội có văn minh, quý dân chủ, trọng nhân quyền. Cụ thể là khi chúng ta giảng trong các đại học công lập hoặc dân lập tại Việt Nam, thì cuối giảng đường là đám công an văn hóa ngồi chực, canh, núp, rình, để nghe ta nói gì với sinh viên và đồng nghiệp những điều gì mà còn về báo cáo với bạo quyền độc đảng công an trị.
Chính sự tự tin làm nên niềm tin vì tự do sẽ giúp ta chuyển hóa não trạng để thay đổi giáo khoa vì sự thật khoa học biết làm nên lẽ phải trong đạo lý. Ta phải giảng như bơi ngược chiều để chống lại cái não trạng vô minh của tuyên truyền trị, vì ta muốn trao gởi những thông điệp của chân lý khoa học khách quan, để não bộ của sinh viên, của đồng nghiệp được mới, để não trạng của họ được sạch hóa. Để thầy trò cùng nhau đi từ kiến thức tới tri thức để đối kháng lại với ngu dân trị của bạo quyền vô tri. Cũng để đi tiếp thêm một bước nữa từ ý thức tới nhận thức để chống đối vô minh trị của cực quyền, vô tri trị của cuồng quyền, chóng chầy sẽ dẫn dân tộc và giống nòi tới vô học trị, đây chính là vực thẳm của vô hậu trị. Lõi tự tin làm nên lực tự do, nếu muốn vừa vững, vừa bền thì liên minh tự tin-tự do phải là không gian của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
Tự tin để nắm lấy tự do chính là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong cá nhân sẽ là động cơ của dân tộc, là động lực của đất nước. Các lãnh đạo của ĐCSVN độc đảng trong vô minh, độc quyền trong vô tri, độc tài trong vô học, rồi độc tôn trong vô hậu, thì làm sao có chủ trương về hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) như các lãnh đạo của các quốc gia láng giềng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, cũng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam.
Tệ hại hơn nữa khi ta vận dụng các phương pháp nghiên cứu và khảo sát của ngôn ngữ học tri thức, cùng với chính tri học nhận thức và xã hội học quyền lực để tìm hiểu về các lãnh đạo của ĐCSVN. Các kết quả tới từ điều tra và điền dã của ba chuyên ngành đã phân tích và giải thích được não bộ sơ sài cùng não trạng thô sơ của các lãnh đạo của ĐCSVN. Cụ thể nhất là ba nhân vật chóp bu lãnh đạo từ Bộ Chính Trị tới hành pháp và lập pháp, đó là Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ Tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ Tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Khi họ phát biểu ta sẽ nhận ra là tin tức trong truyền thông của họ không có lý luận; rồi nội dung trong truyền thông của họ không có lập luận; và tư tưởng trong truyền thông của họ không có giải luận.
Cụ thể là phương trình tin tức-nội dung-tư tưởng trong truyền thông của họ không có một giá trị diễn luận gì cả. Ngoài khẩu lệnh tuyên huấn để ép ra khẩu hiệu tuyên truyền, thì ngữ vựng của họ không có kiến thức, ngữ văn của họ không có tri thức, ngữ pháp của họ không có nhận thức. Tất cả làm nên một loại “lời ra tiếng vào” trống lý trí, vắng trí tuệ, rỗng tuệ giác. Một đẳng cấp lãnh đạo như vậy đã làm nên thảm bại của ĐCSVN trước nhân lộ đi tìm tiến bộ vì văn minh. Chính thảm bại của ĐCSVN đã và đang là thảm họa của Việt tộc, nơi mà tuyên truyền trị sinh đôi với ngu dân trị, nơi mà vô tri trị sinh đôi với độc đảng trị. Ba chuyên ngành kể trên: ngôn ngữ học tri thức, chính trị học nhận thức, xã hội học quyền lực đã xác chứng là chỉ có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) mới chính là hùng lực để chống lại vô tri trị, vô minh trị, đồng hội để đồng thuyền với ngu dân trị đã và đang đi ngược lại hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến).
Khi có tự tin tạo sáng kiến vì tập thể, cộng đồng, dân tộc, thì sẽ có tự do sáng tạo để kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng gần xa, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Đây là ý chí làm sáng não bộ đang thụ động để làm sạch não trạng đang tiêu cực, sau bao năm, qua bao thế hệ phải nhận lãnh bao tà nạn của ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của độc đảng u mê trong độc tài nhưng lại bất tài trong quản lý đất nước, thậm chí đã đưa dân tộc ngày càng xa nhân lộ của tiến bộ vì văn minh.
Tự tin vào hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) với tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân. Tự tin để làm người một cách liêm sỉ nhất, tự tin để làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất. Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm minh, liêm sỉ) đã thật sự vắng bóng tới biệt dạng từ khi ĐCSVN cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi ĐCSVN kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.
Quê hương gấm vóc của tổ tiên trong tay họ giờ thì trở thành bãi rác của Tàu tặc, với không khí bị nhiễm ô của Tàu họa, với môi trường bị ô nhiễm từ Tây Nguyên tới Formosa. Bỉ ổi nhất là con dân Việt sa vào xuất khẩu lao động, với con đường làm thuê trong nhục kiếp, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, ngày càng sinh ra bao kỳ thị khinh miệt người Việt trên các châu lục. Trong tay ĐCSVN, Việt tộc đã bị mất nhân vị ngay trong nhân sinh quan của các lãnh đạo đảng lấy bạo quyền công an trị để nuôi nấng tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi dưỡng âm binh trị chính là bọn xã hội đen, với côn đồ, lưu manh, du đảng đang ung nhọt hóa đời sống xã hội. Bài học của triết học đạo đức có bạn đồng hành là tâm lý học xã hội đã giải luận rõ: kẻ mất niềm tin sẽ mất tự tin, kẻ không tự tin thì khó tìm được niềm tin. Chẳng lẽ đây là nhân kiếp hiện nay của Việt tộc sao?
Tự tin vào một nhân lộ văn minh luôn biết lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn). Tự tin khi mình trực diện đấu tranh chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức, tham ô, tham nhũng, tham tiền) khi dân tộc đã bị tước đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Tự tin vào tự do là trụ cột của cộng hòa có công bằng và bác ái, sẽ đưa tự tin tới gặp dân chủ, để khám phá thêm hai định luận làm nên hai đạo đức cho nhân sinh, đó là đa nguyên vì nhân quyền. Khi có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc. Từ đây một tự tin mới sẽ ra đời, đó là sự tự tin diệt bọn “sâu dân, mọt nước”, đám “phản dân hại nước”, lũ “buôn dân bán nước”, bè “mại quốc cầu vinh” đang lúc nhúc như sâu, như mọt trong mạng lưới quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, đã và đang ngày ngày điếm nhục hoa trí tuệ, ô uế hóa mọi nguyên khí của quốc gia.
Tự tin vào tự do là vốn liếng, mà cũng là kháng thể để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên nhân lộ tiến bộ vì văn minh…. Một hệ độc rất độc đoán trong độc hại đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên. Hãy xác chứng tự tin vì tự do để vĩnh viễn gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của giống nòi này! Một công hai việc, hãy tự tin vào nhân vị chính là sung lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn Tàu tặc, đám lãnh đạo Bắc Kinh, với ý đồ muôn thuở xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Hãy tự tin để bảo trì chủ quyền, tự tin để bảo đảm độc lập, tự tin để bảo quản đất nước. Có tự tin để chuẩn bị thật tỉnh táo trong sáng suốt trước bọn Tàu tặc chỉ biết luật rừng của kẻ mạnh là trộm, cắp, cướp, giật.
Nhưng đâu là vai trò của tương lai học trong các định đề mới về tự tin trước bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phức tạp? Tự tin có cơ sở của tương lai học là sự sáng suốt trước các hậu quả cùng hậu nạn về cách đối xử của con người đối với con người, và của con người đối với thiên nhiên, môi trường, trái đất… Tại đây, tính ràng buộc vào nhau rồi lệ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố và các yếu tố tới từ thiên nhiên, môi trường, trái đất tác động trực tiếp lên nhau, từ cơ chế chính trị tới đời sống xã hội, cả tới tâm lý cá nhân:
-Biến đổi khí hậu với quá trình tăng nhiệt độ trong bao năm qua sẽ tiếp tục trong sinh hoạt của con người, khi thiên tai truy bức môi trường, truy hiếp con người, từ hạn hán tới bão lụt, từ ô nhiễm không khí tới nhiễm độc nguồn nước… ngày càng bất ngờ hơn, ngày càng dữ dội hơn, tất cả sẽ tác động lên trực tiếp và thấm đậm lên quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Các chính quyền đứng không vững trước các tai họa tới từ các thiên tai là những chính quyền không biết tương lai học của khoa học luận dự phòng, vì không có chuẩn bị bằng tương lai học của phương pháp luận dự phóng. Cụ thể là các chính quyền đang nằm trong tay của các lãnh đạo vô minh trước các chỉ báo của khoa học, vô tri trước các báo động của các khám phá mới nhất của khoa học về các dữ kiện về môi trường, về các dữ liệu được cập nhật thường xuyên. Đó là thực trạng hiện nay của chính quyền độc đảng toàn trị của ĐCSVN, nơi mà vô tri trị, vô minh trị sẽ làm ra vô học trị, để rồi sẽ dẫn dắt tới: vô hậu trị, nơi mà thảm bại của ĐCSVN làm nên thảm họa ngay trên giòng sinh mệnh của Việt tộc.
– Thiên tai vừa bất ngờ hơn, vừa thường xuyên hơn, lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa từ khoa học, kỹ thuật tới kinh tế, thương mại, có kẻ thua người thắng, với quy luật mạnh được yếu thua, cho sinh ra quan hệ bạo hành của loại cá lớn nuốt cá bé. Từ đây, phản xạ co cụm vào bản sắc quốc gia với loại não bộ kín cổng cao tường, tạo ra phản ứng của não trạng bế môn tỏa cảng, để rồi sinh ra hành động phản kháng thụ động trong tiêu cực của ngăn sông cấm chợ. Đây chính là chỉ báo của sự thiếu tự tin, sự mất niềm tin, trống sự vận não, vắng sự vắt não, từ đây sẽ sinh ra các hành vi tiêu cực. Từ kỳ thị chủng tộc tới phân biệt đối xử giữa các sắc tộc, rồi sau đó là giữa các thành phần xã hội, và sau cùng là nội loạn xã hội, với phản xạ phòng ngự tạo ra bạo động, với phản xạ đề kháng tạo ra bạo hành. Các chính quyền không biết chuẩn bị bằng khoa học luận dự phòng của tương lai học, và không sẵn sàng với phương pháp luận dự phóng của tương lai học. Cụ thể là không có sự trợ lực của các dự án cho tương lai với các dữ kiện, dữ liệu khách quan của mọi ngành khoa học sẽ lúng túng rồi sa vào ngõ cụt mà tự sụp đổ.
– Khi nhập nội vào khoa học luận dự phòng của tương lai học, để đi tới phương pháp luận dự phóng của tương lai học, thì phải rời bỏ «não trạng coi bói» song hành cùng «não bộ đoán mò», lúc thì dựa trên họa luận của bất ngờ, lúc thì bám vào hoạn luận của ngẫu nhiên. Vẫn chưa xong, chúng ta phải cẩn trọng luôn cả với nhân quả luận, nhân nào quả nấy, đây chỉ là loại «não trạng khái quát» song cặp với «não bộ tổng quan». Tương lai học đúng danh nghĩa của nó, là một chuyên ngành có trí năng, có tiềm năng, có khả năng tập trung được đầy đủ từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, từ lý luận tới lập luận của rất nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau, nơi mà tương lai học là chân trời hội tụ của tất cả chuyên ngành cùng nhìn về một hướng là: tương lai sinh tồn của con người trên trái đất này.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).