Vùi Sáng Tạo Việt (P6)

Các người đã diệt:

Chủ thể sáng tạo trong mô thức Thanh Tâm Tuyền

Ai cũng biết chế độ dung bạo quyền công an trị của các người thì rất “mất ăn mất ngủ” bởi những chủ thể sáng tạo theo mô thức Thanh Tâm Tuyền, biết nhận bổn phận với dân tộc, biết gánh trách nhiệm với xã hội, dung chính tự do của mình để bảo vệ sáng tạo của chính mình để thăng hoa giống nòi và đất nước. Nên các người rất sợ thể loại thơ này của Thanh Tâm Tuyền:

Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão

Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai

Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai

Tìm cánh tay nước biển

Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi

Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể

Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn

Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường

Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt

Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng

Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn

Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường

Tôi chờ đợi cười lên sặc sỡ… mái ngói thành phố ruộng đồng

Bấu lấy tim tôi thành nhịp thở

Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh

Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng chảy máu tiếng kêu.

Phương châm thi ca của Thanh Tâm Tuyền là: “ta đập vỡ hình hài và thức giấc”. Thơ của Thanh Tâm Tuyền thức tỉnh trí người, tầm vóc này hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vì những năm còn trẻ, Thanh Tâm Tuyền đã thấy cuộc đời này là hội buồn: «… nghe trong đời miên man ngực yếu… tiếng trống bồi hồi thôn dã giục người về dự hội. Hội sum vầy thắm thiết có hay… và buổi mai này rồi sẽ mọc lên ủ ê niềm thống hối. Trên bầu trời ngày đã quên ngày. Chó tru khiếp đảm… ».Thơ Thanh Tâm Tuyền viết từ ký ức trong sự trống vắng của chữ đang bị thôi thúc hướng về những chân trời tối mịt, niềm tin không có tương lai, niềm yêu không còn viễn ảnh: «… Một phút là thi sĩ đủ sáng tâm hồn đầy cuộc đời… chữ tự do không nghĩa. Mỗi người đã chính một tự do… tôi ngủ ngoài nghĩa địa một mình. Quanh tôi là người khác. Chúng tôi cùng cô độc… không bao giờ quên người ngủ ngoài nghĩa địa…».

Thanh Tâm Tuyền dặn tôi: «Khoá muốn viết về tôi thì cứ viết, nhưng nên bắt đầu đọc thơ tôi qua chữ thất bại (défaite), nó không phải là chủ bại (défaitisme), vì tôi chẳng theo một chủ thuyết nào, cũng không theo một ý thức hệ nào». Khi trở lại Pháp, tôi mang theo bài cây rừng, mà anh dịch từ một bài thơ aux arbres của thi sĩ Bonnefoy lúc Thanh Tâm Tuyền đang «ở tù cải tạo», Thanh Tâm Tuyền không để sự ủ rục diệt mình trong cõi tù xa xăm, anh đã biến một tác phẩm cội gốc của một nam tào trong thi ca Pháp thế kỷ hai mươi ra một tác phẩm rộng với câu cao và chữ ngọn, đầy Việt tính, cũng đầy tình người.

Đầu năm 1987, tôi trao tận tay thi sĩ Bonnefoy ngay tại giảng đường của Collège de France, ông vô cùng cảm động vì biết ra là bài thơ được dịch từ nơi tù rạc, ông thốt lên: «Le poète Thanh Tâm Tuyền arrive à réaliser la vérité de parole dans l’expérience poétique», đã làm được chuyện đưa chân lý của lời người vào được kinh nghiệm thơ, Bonnefoy mong có ngày gặp được anh Tâm, nhưng chuyện tổ chức cho hai người gặp nhau không thực hiện được trước ngày Bonnefoy qua đời. Buồn về chuyện này, nhưng Thanh Tâm Tuyền lại vượt lên được cái tiếc nuối: “Tiếng nói gọi về phía trước, bước sóng dài, người sẽ gói vào lòng bàn tay”.

Thanh Tâm Tuyền đặt bút để trở thành chủ thể: «…Giật mìn ngay những vùng trời riêng rẽ, ta chui xuống hố cá nhân, ôm ngày mai vào lồng ngực, tình yêu làm giáp sắt, ta rút về chiến khu, pháo đài dựng lên tua tủa niềm tin, nguyện chiếm lại đại lộ bờ cây tâm sự…». Thanh Tâm Tuyền đặt bút để nhận ra cái thử thách của chủ thể: “Tôi buồn chết như buồn ngủ/ dù tôi đang đứng bên bờ sông/ nước đen sâu thao thức/ Tôi hét tên tôi cho nguôi giận/ Thanh Tâm Tuyền. Thanh Tâm Tuyền. Thanh Tâm Tuyền”. Nỗi buồn của Thanh Tâm Tuyền nhiều lúc đưa ông đi thật xa: “Tôi thèm giết tôi… Tôi thèm sống như thèm chết”. Đây không phải là chuyện tự đặt ra, mà đây là chuyện cốt lõi trong nhà ngục tâm hồn qua các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, qua thơ của Thanh Tâm Tuyền người ta thấy được số kiếp của kẻ sáng tạo trên đất nước oan khiên này. Không gian tâm hồn trong nhà ngục tâm hồn. Thế giới nói thêm lời hoa cỏ thiên nhiên.

Sống không dễ và chết cũng không dễ. Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều/ các anh nhớ tôi còn sống/ quờ quạng tay gian díu/ cách mạng nổ trong sự nín thinh. Phạm Đình Chương đã biến thành nhạc những câu mà mỗi lần đọc là mỗi lần thấy nghẹn, nghẹn cổ vì nghẹn lòng: «… đất nước tôi có một lần/ tôi ghì đau đớn trong thân thể/ những dòng sông những đường cây núi nhọn/ những biệt ly rạn nứt lòng đường…».

Về chuyện chữ nghĩa anh chuẩn bị rất miệt mài, chu đáo, hiếm thấy trong sinh hoạt văn nghệ Việt Nam. Thanh Tâm Tuyền giải trình rất rõ các bối cảnh ra đời của bếp lửa, tại sao nhân vật chính ngay từ đầu đã đi trên đổ nát của lịch sử, rồi của ung thư, cuộc sống như không có lối ra; anh trở lại phân tích «tận nguồn lạch sông» nhận định của Malraux trong la voie royale «mais vivre en acceptant la vanité de son existence… vivre avec cette tiédeur de mort dans la main comme un cancer». Sống để chấp nhận cái chóng chầy trong nhân sinh… sống với cái ẩm mốc của cái chết trong tay như nhận ung thư.

Đi lần tìm cõi thơ của Thanh Tâm Tuyền, người ta sẽ đọc được lịch sử dân mình từ những viết thương còn tươi tới cái thấp thỏm chờ nhau trong các bịnh viện, nhưng bệnh viện không phải là nơi báo tin về cái chết, nó là nơi mà con người vẫn đòi cho bằng được quyền sống, mặc dầu đất nước đang bị chiến tranh thôi miên; mặc dầu dân tộc đang bị dòng nước đen của chuyện nội chiến chém giết vấy bẩn.

Trong bài gửi Quách Thoại, người bạn sớm mai nhóm Sáng Tạo của anh đã ra đi quá sớm, Thanh Tâm Tuyền không để không khí bệnh viện biến thành không gian tật nguyền giữa cuộc sống: «…bệnh viện thành công viên khuất nẻo/ Người ngủ một mình đợi chúng tôi… Không chết trần truồng không thể được/ Chúng tôi đập vỡ những hình hài/ Cuộc sống phải thừa như không khí/ Cuộc sống phải thừa như sớm mai…».

Thanh Tâm Tuyền hiểu được cái gay gắt của Flaubert trong sáng tác như hiểu nghịch lý của văn chương, vừa mang sức mạnh của kẻ sáng tạo đang thắng tờ giấy trắng trước mắt, vừa có sức hủy diệt từng chữ, từng hàng, cả trang trên tờ giấy trắng đó do chính mình viết ra. Viết trong văn chương, nhất là làm thơ, không phải là chuyện viết nhật ký. Triết gia Rancière, trong tác phẩm La parole muette, Lời câm đã nhận định không sai: viết để chống lại cái trống, loại ra luôn chuyện bỏ chạy, nó là chuyện thấy được nhịp đời trong nhịp câu thật sâu kín luôn nằm bên trong của tư tưởng.

Thanh Tâm Tuyền thấy rõ chuyện này, nhưng anh có cách nói của anh, nhớ lại bài bao giờ«…chiều không xanh không tím không hồng/ những ống khói tàu mệt lả… chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình/ như kẻ say rót rượu lấy mà uống… cho vui thêm cuộc hành trình (đúng rồi những người thù ghét thơ của tôi ơi)/ cuộc hành trình hoàn toàn cô độc…». Thời gian đã dắt dìu ý thức bằng cái thất bại giữa đời của chủ thể, cái thất bại này giúp con người hiểu sâu hơn cái thảm bại trong tình yêu, anh không vứt tư tưởng thơ của mình ra giữa khơi, Thanh Tâm Tuyền bảo vệ tình yêu chống lại mọi ẩm thấp làm chìm ngộp tình yêu, làm nó đuối giữa dòng rồi vùi nó. Vì con người còn có một sức mạnh khác: sức mạnh của tự do cho chính mình, sức mạnh này sẽ tạo ra được một không gian mới cho lời người – lời người chớ không phải lời nói- biết đưa người tới một kiếp mới, một kiếp sinh động biết đối thoại với những hẹn hò mới, biết đối thoại là biết mình còn sống, biết hẹn hò là biết mình còn yêu.

Thanh Tâm Tuyền là chủ thể bảo vệ sự sống: Đừng bắt tôi từ biệt. Vì tôi còn chất đầy tiếng nói/ tôi đã bao giờ muốn chết… tôi còn muốn sống muốn sống/ thực hiện rừng danh từ của chúng tôi. Thơ tình của Thanh Tâm Tuyền không ca tụng trơn tru tình yêu, cũng không than khóc thụ động ủ dột tình ái, anh tìm mọi cách bảo vệ chúng, ngay giữa những thời khắc tuyệt vọng nhất: «Anh sợ những cột đèn đổ xuống/ rồi dây điện cuốn lấy chúng ta/ bóp chết mọi hy vọng/ nên anh dìu em đi xa… sao tuổi trẻ quá buồn/ như con mắt giận dữ/ sao tuổi trẻ quá buồn/ sao tuổi trẻ quá buồn như bàn ghế không bầy.

Trong tuyển tập la part d’exil, mà tôi chủ biên cho đại học Aix en Provence, Thanh Tâm Tuyền khi nhận tham gia, đã trả lời: «Gần đây, tôi không làm thơ nữa, nếu người ta ngủ cùng giường với thời sự qua những chuyện tức khắc hằng ngày, sinh lực sẽ mòn, trí tuệ sẽ bị ao tù. Thơ như những nghệ thuật khác, cần không khí trong lành, cần nội lực trong sạch, cần não trạng trong sáng… chuyện bỗng dưng không làm thơ nữa đã xẩy ra với tôi trước năm 1960, thời điểm mà tôi bị khủng hoảng nhưng bằng sự sáng suốt giữa cơn điên, lúc đó tôi loại thơ ra khỏi tôi một cách ý thức và rất lạnh lùng, coi thơ như một loại rễ lạ bám vào thân mình, cứ tự hỏi: tại sao thơ? Tại sao phải làm thơ? Tại sao làm thơ giữa thời buổi này? Tại sao phải chính tôi làm thơ thời buổi này? Những câu hỏi ngu ngốc đó có sức sáng suốt của nó, nó đánh thức tôi đừng sống bằng ảo tưởng, trong thời gian như vậy tôi sống trong cái điên sáng suốt của mình».

Chuyện lý trí vẫn là chuyện cốt, gốc, rễ trong thơ của anh, chuyện này đã có mặt trong bài lệ đá xanh: tôi biết những người khóc lẻ loi/ không nguôi một phút/ những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình… chuyện thể hiện ra ngoài bằng ngôn ngữ không còn chỗ đứng tuyệt đối với thi sĩ như Thanh Tâm Tuyền chỉ cần giữ cái nguồn, cái cội, cái mạch của trí tính, vừa lặng, vừa mạnh. Câm giọng không phải là nín lời. Đêm lắng của thơ không phải cái câm trắng của ngày, ta thấy rõ chuyện này qua bài đêm; những người đi trong đêm, xuyên chiến tranh, thấu rõ mọi đổ vỡ,  họ có «sức thấy» của họ mà người khác không có, vì họ đi nhiều, sống nhiều và suy nghĩ nhiều: «Những đêm nào chiến tranh đã qua/ con mắt đen niềm im lặng/ anh vẫn đi hoài trong thành phố.

Mann khi bỏ đất nước Đức thân yêu mình ra đi, đã trách đồng bào mình là: «regarder sans voir», nhìn mà không thấy, nhìn và sống với Đức Quốc Xã từ lâu, hàng ngày mà không thấy chúng là bọn sát nhân. Thanh Tâm Tuyền thấy được thật rõ nhiều chuyện tai ương của đất nước, thảm họa của dân tộc trong tay của bạo quyền độc đảng toàn trị: « Hình ảnh tự do đổ vỡ… Các con ơi cha anh chết đều chưa đầy tuổi ba mươi. Đồng bào mình lạc lõng ngay trên đất nước mình, lạc đường giữa nhân sinh, lạc loài giữa đồng loại. Bầu trời nắng như màu bơ vơ, nắng nhiệt đới xéo bàn tay run rẩy.

Thuở sinh thời những lúc bàn bạc về «thơ gần ta, thơ xa ta», Thanh Tâm Tuyền rất gần với R.Char: «Souvent je ne parle que pour toi afin que la terre m’oublie»; thường thì Thanh Tâm Tuyền có cách nhìn tình yêu của riêng anh: «Sẽ chết như sao rơi vào bất tận. Sẽ yêu như giọt nước hân hoan…» Valéry xem mỗi bài thơ là một cơn bão của tư tưởng: «Il me semble voir la figure une pensée pour la première fois placée dans notre espace », mỗi bài thơ mang một khuôn mặt mà hình như lần đầu ta thấy được tư tưởng được đặt giữa không gian của chúng ta. Thanh Tâm Tuyền cũng có cách nói của anh: «Cho đi hoang làm cơn lốc bi thảm. Cuốn ngay chính mình chết theo không gian…»

Thanh Tâm Tuyền rất tránh các thi sĩ suốt ngày «đẽo chữ» cho đẹp, anh thích gần các thi sĩ «đào sâu từng chữ», sự thật không phải là chuyện đẽo đục, mà là chuyện đào để tìm, sâu cùng vực, đắm cùng hoạ, để thấy rõ kiếp người, chữ ghẻ lạnh của riêng Thanh Tâm Tuyền ra từ đáy vực: «Trưa nắng cháy vào sâu trong ghẻ lạnh. Với máu trong tim. Chảy nhanh như máy móc đau ốm». Thanh Tâm Tuyền thấy rõ hoang tàn, nhìn rõ tuyệt vọng, chủ thể thất bại nhưng nhân sinh không thảm bại, nhìn thấy được vực để tránh nó, để sống; đào sâu từng chữ để rèn cứng từng lời, không bầy biện biểu tượng, không phô trương luân lý, để giữ cho bền sức ý thức của tự do.

Cả đời là sa mạc. Cả tôi là tự do. Chất tự do của chủ thể trong thơ Thanh Tâm Tuyền luôn bị đe dọa, người ta yêu quý nó, nhưng đối với Thanh Tâm Tuyền nó cũng là nơi của bao gẫy đổ qua thời cuộc, nó nói lên bao hữu hạn của kiếp người, với bao mất mát trước các tai ương của chiến tranh, làm tật nguyền tâm linh của nhân sinh. Làm người cách nào thì trọn vẹn khi đã mất lòng tin? Nhưng bất cứ giá nào cũng phải ôm ấp cho bằng được chủ thể tự do: «Anh ôm ghì sự bất lực đói khát, mũi dao nhọn giữa lòng tin».

Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền chữ tự do có lịch sử riêng của nó vì không hiểu tự do làm sao hiểu được tình yêu. Người ta chỉ yêu khi tự do. Đây cũng là cuộc đối đầu giữa cái áccái nhân, trong thơ của Thanh Tâm Tuyền con người phải đi qua đêm để thấy một loại ánh sáng mới đứng giữa lòng đêm, rồi cùng nhau lấy chung một quyết định chém đầu chuyện cúi đầu, nếu lấy thời điểm 1975 làm con mốc cho chuyện biến thiên của người Việt, thì hai mươi năm trước là chuyện di cư: «Tôi chờ đợi. Lớn lên cùng giông bão. Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai. Tìm cánh tay nước biển… Con ngựa buồn. Lửa trốn con ngươi…». Rồi gần hai mươi năm sau là chuyện di tản: «rũ bỏ ký ức- ký ức người… nuốt trọng điếm nhục… và đi… biết trí nhớ khuất ngoài tích sự…».

Thơ Thanh Tâm Tuyền gom được sử đời, rồi sẵn sàng cõng nó trên lưng và đi. Thanh Tâm Tuyền trực diện với lịch sử, bạn bè của Thanh Tâm Tuyền kể là năm 1954 giữa đợt di cư, Thanh Tâm Tuyền còn lấy chuyến bay cuối cùng để trở lại Hà Nội nhắn gởi gần xa hãy thận trọng với chế độ độc tài mới. Rồi giữa dòng người di tản trước ngày 30 tháng Tư, có bạn bè gặp Thanh Tâm Tuyền và hỏi: «Nên đi hay nên ở?», Thanh Tâm Tuyền trả lời: «Đất nước của mình, mình ở, không đi, ở và chấp nhận cái giá ở lại này!». Nhưng quyết định ở lại đã lao lý hóa Thanh Tâm Tuyền trong các trại cải tạo hơn 10 năm, đây cũng là tà thuật của bạo quyền tìm mọi cách truy diệt chủ thể sáng tạo.

Thanh Tâm Tuyền cũng chấp nhận cái thử thách lớn nhất của thi ca trong cuộc đời làm thơ của mình, đó là chuyện thấy được cái chung của nhân sinh nằm trong sinh lực chỉ của một chủ thể, chủ thể không phải là một người riêng rẽ, chủ thể là nơi hội tụ của mọi biến cố mà nhân loại có thể chưa biết, nhưng qua chủ thể này các biến cố giờ đã được xếp thành biến cuộc mà con người có thể hiểu được qua thi ca, thơ khung lại biến loạn, thơ rào lại biến tâm, rồi đi tìm nghĩa sống mới cho nhân loại. Triết gia Deleuze, cùng thế hệ với anh nhận rõ được điều này: «Un seul et même océan pour tous les gouttes, une seule clameur de l’être pour tous les étants». Chỉ một và cùng đại dương cho mọi hạt nước, chỉ một cuộc bùng nổ của một chủ thể cho mọi người, bùng nổ rồi gẫy đổ, chủ thể này chấp nhận rơi vào cô đơn, đi từ chuyện thất bại này qua thảm bại khác, để thơ tự lột được vỏ bề ngoài của mình, và thơ sẽ trao nội chất của nó cho chủ thể.

Như vậy nhân sinh sẽ cứng cáp hơn, nhân loại sẽ chịu đựng bền bỉ hơn trong nhân thế hỗn loạn. Không sợ cái tàn nhẫn, vì lửa hẹn vẫn hôn gót chân, vì con người vẫn ham muốn chuyện hẹn hò, bất chấp chiến tranh. Em hoàng hôn trút áo/ ngực gọi đêm về/ vì còn đồi đá sỏi/ cần lửa hôn gót chân… sao vỡ trên môi. Thanh Tâm Tuyền có cách nuôi hy vọng riêng cho mình, Thanh Tâm Tuyền rất sáng suốt khi bình câu «l’espoir pour rien» của Char, hy vọng chẳng để làm gì; Thanh Tâm Tuyền cũng hiểu lời dặn của Héraclite: «l’homme qui ne s’abandonne pas à l’espoir n’atteindra jamais l’inespéré». Người mà không bỏ rơi hy vọng sẽ không tìm tới được sự vô vọng. Trong tuyển tập La part d’exil cùng với Tô Thùy Yên và tôi, Thanh Tâm Tuyền kể cho bạn đọc tiếng Pháp nghe được về nỗi thất vọng của Thanh Tâm Tuyền, nơi mà Thanh Tâm Tuyền biến trí tuệ mình thành cấm địa, loại ra khỏi mình những quan hệ xã hội không đâu, tạo điều kiện cho sự trở lại bất chợt và lạ lùng của thơ. Thanh Tâm Tuyền còn tâm sự mỗi lần thơ trở lại, giữa cảnh tù đày cải tạo, Thanh Tâm Tuyền thấy được hạnh phúc, có khi thấy hơi mắc cỡ, Thanh Tâm Tuyền viết chữ pháp «timide», rồi giấu những bài thơ đó như hồi còn trẻ, như giấu cái vui sướng thật riêng tư. Hoang vu lời thơ ai heo hút cùng cỏ cây heo hút/ dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn chốn bình minh lẩn lút.

Biết tìm cho mình nẻo nguồn chốn bình minh lẩn lút là biết sống. Có những thi sĩ mỗi ngày đều làm thơ nhưng không có chỗ riêng tư để bảo vệ thơ mình, nhiều khi thơ của họ không có chỗ để dung thân, Thanh Tâm Tuyền tự dặn mình tạo chỗ nương thân cho thơ. Không khí nhiễm độc. Đập vỡ. Quá khứ hỗn xược trên da trống. Cái khó hằng ngày là nuôi hy vọng của mình ngay trong địa ngục trước mắt, mà đạo Phật đã phạm trù hoá được, rồi đặt tên cho nó là: địa ngục điện tiền. Nhớ lại bài Đêm đông ở k2 Tân Lập: «…còn qua bao cửa ngục? Đây quê mình quê người?…», địa ngục cải tạo loang như vết dầu trùm phủ cả quê hương, rồi người Việt không còn nhận ra đất nước của mình nữa.

Nếu cái ác của bạo quyền mang con người ra để «đấu giá» thì nhân tính sẽ thất bại, nhân sinh sẽ chết ngộp, nhân tình hấp hối giữa đời. Giọt sáng rơi kiệt cùng cõi hư. Không gian tối tăm này, cũng được anh đặt tên là: Miền khuyết sử, Thanh Tâm Tuyền phân tích rõ ý mình: «Sự thật… sự thật như rắn rết, chuột bọ, ếch nhái, như rau cỏ, quả rừng được ăn nuốt vội vàng bất chấp mọi phép tắc. Bố đã nhai nghiến trệu trạo bằng hai hàm răng đau nhức với sự thực lượm trên đường…».

Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền, chủ thể đi hoang để tự cứu mình, vì môi trường sống đã thành môi trường chết, ngày mình sinh ra đời là ngày mình đi lạc trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn này, ngày sinh nhật của Thanh Tâm Tuyền trong trại cải tạo là ngày đất đã không giữ được người, trong bài Sinh nhật trên đồi, Thanh Tâm Tuyền thổ lộ: «… Hắn tự chôn theo gió cuối trời». Anh biết rất rõ thơ của Milosz: «Les morts les morts sont au fond moins mort que moi…», những người đã chết nhiều khi ít chết hơn tôi. Nhưng Thanh Tâm Tuyền không phải Milosz, Thanh Tâm Tuyền thấy được lối ra của nhân sinh giữa vũ trụ sang mùa, lối thoát của nhân loại đi tìm một loại ánh sáng mới bằng tự do của quyền làm người, tự mình tìm lối đi cho chính mình, không để cái chết tự do độc thoại.

Trong bài Vang vang trời vào xuân, giữa trại tù cải tạo Thanh Tâm Tuyền thấy được mùa xuân đang dẫm trên vai cái ác, đang vượt trên đầu cái vô nhân, đi tìm ánh sáng mới giữa mùa xuân mới để đào sâu hơn ý nghĩa -và ý định- của tự do: «Vang vang trời vào xuân. Ta bật kêu mừng rỡ. Ôi bạn bè xa xăm. Tim ta cũng cháy đỏ. Rừng thẳm bóng trăng ngàn». Thanh Tâm Tuyền sống thật với câu chữ của mình, thơ của Thanh Tâm Tuyền là thơ tự do, tự đào trong chữ, tự thoát trong câu, tìm nhạc tính cho riêng mình không bị lệ thuộc vào thói quen của vần điệu nhân gian. Thanh Tâm Tuyền làm thơ như chủ thể luôn tìm ra được các chân trời lạ để thấy và để sáng tác: « Đau như thú dữ cháy rừng. Ta đập vỡ hình hài và thức giấc».

Thanh Tâm Tuyền là chủ thể thức để thấu: “Em gối đầu sương xuống/ Trò chuyện với bóng mình/ Tôi đẹp như hình tôi/ Như cuộc đời, như mọi người…”. Giá trị tâm linh luôn có chỗ dựa bắt đầu là sự tỉnh thức rồi từ đó là sự thức suốt, một nhân tri của nhân lý, bỗng nhiên khi thức tỉnh thì sẽ tỉnh táo mãi mãi, khoảng thoắt chốc sự tỉnh thức giờ đã thành sự nhận thức thường xuyên cho cả đời người. Phương trình tỉnh thức-nhận thức, làm nền cho mọi hành động mang nội chất tâm linh trong đó có trọn vẹn hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) của nhân trí.

Câu chuyện của một người con gái, chỉ một mình, đơn thân, khi gối đầu sương xuống, nhưng không cô đơn, đã biết tự trò chuyện với bóng mình, lập nên cuộc đối thoại có nhiều đối tượng, có hình tôi, cuộc đời, mọi người. Như vậy là đã đầy đủ, không thiếu ai, cái tôi ích kỷ vì tôi chỉ thấy tôi đã không được tham dự vào cuộc hội luận về cái đẹp này, nhật thứ của cuộc hội đàm này không chỉ có một cái đẹp mà có ít nhất tới ba cái đẹp: tôi đẹp, cuộc đời đẹp, mọi người đẹp.

Như vậy, nơi nào có sự sống, người ta sẽ tìm ra cái đẹp. Câu chuyện ở đây là giá trị tâm linh nêu lên cái đẹp đa phương, đa chiều, đa dạng của cuộc sống từ tôi ra tới cuộc đời, trong đó đã có mọi người, và từ ba cái đẹp đa nguyên này thì thế giới bên ngoài sẽ đẹp, vũ trụ trên cao cũng sẽ đẹp theo chăng? Nhưng các giá trị tâm linh có khác với các giá trị minh triết không? Có chứ! Các giá trị minh triết tìm lối thoát cho mọi khúc mắc của cuộc đời, có lúc minh triết tính chuyện “thoát tục”, chấp nhận chuyện “mai danh ẩn tích” để được an nhiên tự tại (sống yên để yên sống). Còn các giá trị tâm linh ở lại với đời để tìm cách sống đẹp, và cùng lúc bảo vệ cái đẹp của đời, của người. Tâm linh sống với người, ở lại với đời để nâng người lên cao qua cái đẹp, mở tầm nhìn của người để làm rộng đời, rồi đưa đời, đưa người, đưa tôi đi xa và đi sâu vào cái đẹp…

Thanh Tâm Tuyền là chủ thể thức để vượt oán, trong ngục tù lao lý của bạo quyền độc đảng, thơ của Thanh Tâm Tuyền đi trên lưng những oán hận, đi trên vai những thù hận, đi trên đầu những cừu hận: “Lòng phiêu linh không chút oán sầu”. Các giá trị tâm linh luôn giúp con người vượt qua oán, sầu, thù, hận… để khi vào cõi của tâm linh với các giá trị cao, đẹp, tốt, lành, khi con người dẹp được chuyện mà đạo Phật gọi là tham, sân, si. Thi từ “Lòng phiêu linh không chút oán sầu” này của Thanh Tâm Tuyền được sáng tác trong những năm tháng bị giam cầm trong các trại học tập, mỗi khi ra khỏi trại giam để “đi lao động”, là Thanh Tâm Tuyền có thể gặp được thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ, lá, hoa… đó là lúc Thanh Tâm Tuyền thấy sự thoải mái đã đánh thức được tuệ giác để “không chút oán sầu”, để bao dung, khoan hồng, rộng lượng, vị tha tới hội tụ chung quanh ông.

Sống trong lao lý, nhưng chỉ cần một vài giờ giữa một không gian rộng không rào ngăn, không kẽm gai là lòng phiêu linh hiện diện ngay tức khắc, là các điều kiện để tiếp nhận cõi tâm linh sẽ có mặt tức thời. Lòng phiêu linh vừa là động cơ, vừa là kết quả của tự do, dù chỉ tạm thời, chính khi biết dùng tự do để gạt ra, để buông bỏ, để tháo gỡ, để trút rũ cho bằng hết mọi oán thù, để “không chút oán sầu”nào có thể bám được vào tâm cảnh lúc con người đang có tự do, đây là đường đi nẻo về để hiểu, để định nghĩa các giá trị tâm linh. Nếu thi ca đã vào nằm sâu trong các giá trị tâm linh để người nhận ra người, thì câu chuyện tâm linh luôn là sóng lòng chung giữa người và người, nó làm con người xúc động, thường đi đôi với nụ cười.

Thanh Tâm Tuyền thấy để nghe: “Vang vang trời vào xuân”, giữa những năm tháng tù rạc tại các trại học tập. Câu chuyện tâm linh thường là chuyện khả năng tái tạo của nhân tri, cụ thể là lấy cái cũ làm ra cái mới, lấy cái mà ai cũng biết, ai cũng công nhận tạo ra cái sẽ được chấp nhận giúp ta có tâm yên-trí vững trước các bão tố của nhân sinh. Đây là câu chuyện lấy giá trị bình thường để tạo ra giá trị khác thường, mang theo cái đẹp mới, cái hay mới, cái tốt mới, cái lành mới, không những làm giàu cho cho nhân sinh quan của chúng ta mà còn để nâng cao nhân phẩm của chúng mình nữa!

Trong câu chuyện đi tìm đường đi nẻo về của các giá trị tâm linh, thì thi từ này đưa chúng ta vào một không gian tưởng chừng chỉ có sự im lặng, nhưng chỉ một trạng động từ vang vang, thì không gian với mùa xuân đã huyền diệu rồi, giờ lại thêm có âm thanh làm nó huyền diệu thêm. Một không gian xuân thì chỉ có màu sắc, không có âm thanh, vậy mà thi sĩ dùng vang vang như âm thanh đang tràn lan trong trời vào xuân, một giai điệu mà ta cảm nhận được khi ta thấy vạn vật đang sinh lộc, nẩy chồi. Và mỗi lần chồi lớn lên, lộc rộ ra, hoa nở rộng ra với màu sắc ngày càng rực rỡ, thì ta cảm nhận được dường như có âm thanh, dường như có giai điệu cho sự trở mình, cho cái đang mọc ra, cho cái lớn lên. Âm thanh của sự thăng hoa này lắng nghe chưa đủ, phải cảm nhận nó, để cảm nhận chất sống đang bật dậy rồi đứng dậy ngay trong sự sống, mà thính giác không đủ tài năng để nhận ra, mà phải cần sự nhạy cảm đầy đủ lực để trở thành sự nhạy tâm. Phương trình nhạy cảm để nhạy tâm là gốc, rễ, cội, nguồn của chuyện nhạy lòng trong cấu trúc của các giá trị tâm linh.

Trời vào xuân là chuyện của mùa màng, của ngoại cảnh, của quy luật bên ngoài trong sự vận hành của vũ trụ, còn câu chuyện nhạy cảm-nhạy tâm-nhạy lòng là chuyện bên trong, của nội tâm, một sinh hoạt nội giới được tâm linh kích hoạt nên nó thấy được, nó nhận ra, nó hiểu để thấu rằng: vang vang là kết quả của sự vận hành xuân, khi xuân đang tới với vũ trụ mà nhân sinh đã cảm nhận được nó. Mọi sự vận hành trong lắng động của mùa xuân, giờ đã được ta cảm nhận bằng âm thanh của vang vang, không những đang vang dội bên ngoài, mà cùng lúc đang vang động bên trong mỗi chúng ta, mỗi dịp xuân về.

Các người đã diệt

Hồn Việt hải ngoại của mô thức Du Tử lê

ĐôngTây, có những con đường tâm linh thật khác nhau, trong quy luật sinh, bịnh, lão, tử của Phật giáo, trong đó lịch sử của Phật học có những trường phái cổ còn muốn đi xa hơn, trong câu chuyện thấy cái chết giữa cõi sống, đó là bài học lâm thi (quán chiếu thây người đã qua đời trong rừng để thiền định). Phương Tây thì chọn nhiều con đường khác nhau, trong đó có hai phái rất khác nhau, phái của Plotin phân tích thây người không đẹp vì sự sống đã bỏ thân xác, ông còn cả quyết một thân thể xấu luôn đẹp hơn mọi cái tượng qua điêu khắc được xem là đẹp.

Descarte thì ngược lại thấy được thây người có thể không đẹp nhưng nghệ thuật có thể trình bày để nó trở nên đẹp, để kẻ chiêm ngưỡng sẽ phải công nhận là thây người có thể đẹp, nhờ nghệ thuật chế tác được cái đẹp. Câu chuyện của Du Tử Lê tự kể về chính cái chết của mình là một câu chuyện vừa buồn, vừa đẹp, và cái đẹp có mặt qua các giá trị tâm linh của kẻ lưu vong, cả kiếp sao không chấp nhận kiếp xa nhà, vắng quê, mất đất nước: Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đời lưu vong không cả một ngôi mồ/ Vùi đất lạ thịt xương sao tan biến/ Hồn không đi, sao trở lại quê nhà?

Trước hết là câu chuyện: Đời lưu vong không cả một ngôi mồ, để kế tiếp là nỗi đau đáu của kẻ lưu vong luôn thấp thỏm khi nghĩ tới chuyện bị vùi thân nơi đất lạ: Vùi đất lạ thịt xương sao tan biến. Ở đây nội chất tâm linh đã làm lõi cho ý định-ý muốn-ý nguyện của hồn để biến thành ý lực của chuyện trở lại quê nhà, trong nhân dạng làm nên giá trị tâm linh của câu hỏi: Hồn không đi, sao trở lại quê nhà? Khi câu chuyện tâm linh được khởi xướng lên trong đời lưu vong, thì mạch tâm linh là sự trở về quê nhà cho bằng được (bằng con đường tâm linh): Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ Ngược trôi đi đưa hình hài trở về/ Bên kia trời là quê hương tôi đó/ Dừa nghiêng nghiêng ôm hoài mối tình quê…

Hành tác tâm linh là thây người chết biết ngược trôi đi để hình hài trở về, vì bên kia trời dù xa lắc xa lơ đó, chính là quê hương tôi đó, và người chết có đủ nội lực tâm linh để nhận ra: dừa nghiêng nghiêng ôm hoài mối tình quê. Câu chuyện tâm linh kể rằng khi ta yêu một đất nước, một quê hương, thì ta yêu không sao kể xiết những người mà ta gọi là đồng bào đang sống trên quê hương đó, nhất là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của ta, đã giáo dưỡng ta trong mối tình quê. Đây là hình ảnh của mẹ, của em… mà kỷ niệm, mà ký ức đã giữ trọn để tạo nên cõi tâm linh:  Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ Vì em tôi, vì mẹ già vẫn chờ/ Từ mắt buồn lệ đen hơn bóng tối/ Thả tôi đi cho hồn người được nguôi…

Hành động yêu cầu người đang sống là thả tôi đi cho hồn người được nguôi, nơi mà động từ thả như một hành tác giúp hồn được giải thoát để kiếp lưu vong được giải oan, chỉ để được nguôi thôi. Ở đây trạng từ nguôi là kết quả tâm linh đã thực hiện được chuyện hồn được nguôi, hùng lực của tâm linh chính là đây! Đã làm nguôi những đau đáu tưởng không sao nguôi được. Câu chuyện tâm linh vẫn chưa dứt, tư duy lưu vong lại khám phá ra chuyện tận tuyệt với hồn: Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết/ Đời lưu vong tận tuyệt với hồn tôi.

nỗi buồn chỉ dứt khi tôi (được) chết, nhưng câu sau tại sao đớn đau lại trở về, lần này nó làm nên một nỗi đau mới, một nỗi đau tuyệt đối, ngay cả người chết lẫn người sống không biết có vượt qua được không: Đời lưu vong tận tuyệt với hồn tôi. Tại sao đời lưu vong lại là tận tuyệt với hồn? Đây là câu hỏi mà cũng là câu trả lời cho tất cả những đứa con tin yêu của Việt tộc đang phải sống lưu vong, vì bạo quyền trên quê Việt không cho con dân Việt, được sống và chết với mối tình quê. Đây cũng là thử thách của bất cứ ai đang lưu vong lại đang muốn kể câu chuyện lưu vong, hoặc muốn viết sử về chuyện lưu đày của hàng triệu người Việt, để kể làm sao? Và viết làm sao? Cho có đủ chiều sâu tâm linh của mối tình quê, cho có đủ chiều cao tâm linh của hồn được nguôi… Các người thanh trừng nhau vì quyền lực để tạo quyền lợi mà xây tư lợi thì tôi không tin là các người hiểu thấu hồn Việt hải ngoại của mô thức Du Tử Lê.

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa  Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

 

 

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s