Xóa Thông Minh Việt (P4)

Các người đã diệt

Mô thức bác học Lê Quý Đôn

Ở thế kỷ XVII, Lê Quý Đôn đại diện cho hình ảnh của kẻ sĩ: thích học hành, ham khám phá, trí nhớ cao, Ngài là đứa con tin yêu vì tinh thông của quê hương Thái Bình, nhân dân yêu quý ngài, tặng nhau câu này: “thiên hạ vô tri vấn bằng Đôn”, ai không biết thì hỏi Lê Quý Đôn. Ngài đỗ cả ba kỳ thi, năm 17 tuổi thi Hương, năm 27 tuổi thi Hội, sau đó là thi Đình, Ngài đỗ bảng nhãn, làm quan cho nhà Lê-chúa Trịnh. Ngài cũng là hình ảnh người thật trong học thật, học thật và khám phá thật, hoàn toàn ngược với sự suy đồi hiện nay trong nền giáo dục với bao kẻ mua bằng để mua quyền, bán chức, gian lận trong học giả-thi giả-bằng giả. Mà đến cả ông Bộ trưởng Bộ Giáo Dục Phùng Xuân Nhạ lại tai tiếng vì đạo văn; đến cả Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn Kim Tiến, thi học vị giáo sư đại học rồi lại bị thu hồi vì không đủ hoặc không có trình độ. Trước mắt bao thế hệ trẻ đây là một nền giáo dục từ suy đồi qua đốn mạt, với các Bộ trưởng giả học.

Lê Quý Đôn đại diện cho sự tinh thông toàn bộ, sự minh thông dường như toàn diện, Ngài nghiên cứu về khoa học tự nhiên, Ngài phân tích xã hội, giáo dục, văn hóa… với khối kiến thức đồ sộ. Ngài có những công trình kiến thức mà hậu thế phải cúi đầu khâm phục, cả một cuộc đời dâng hiến cho học thuật. Ngoài tác phẩm lớn của ngài là Vân Đài Ngoại Ngữ, Ngài còn là nhà sử học, nhà tư tưởng, nhà chính trị học, nhà đại lý học, nhà ngôn ngữ học… với các tác phẩm thông thái: Đại Việt Thông Sử, Thủ Biên Tạp Lục, Bác Sứ Thông Lục; Kiến Văn Tiểu Lục, Thư Kinh Diễn Nghĩa, Xuân Thu Lược Luận… Luôn là nhà trí thức chân chính, Ngài là tấm gương thật sáng cho tất cả trí thức, sinh viên, học sinh đang khao khát học hỏi, muốn dứt khoát thoát hoạn nạn trong tà thuật của mua bằng để mua quyền, bán chức, trong ma thuật của học giả-thi giả-bằng giả.

Nhân dạng Lê Quý Đôn có nhân cách một nhà nghiên cứu, một nhà giáo được người đời tôn kính, trong truyền thống hiếu học của Việt tộc, biết tâm niệm chuyện tầm sư học đạo để tôn sư trọng đạo, hậu thế này cứ mong có được một người thầy như Lê Quý Đôn để học cho thỏa chí, thỏa trí, thỏa khí! Nhưng chuyện này đã bị các người là các lãnh đạo của ĐCSVN truy diệt bằng phương thức thất tri-bất trí của các người mà hiện này cả thế giới đều biết là hệ thống giáo dục của các người tạo ra là một hệ thống học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả!

Các người đã diệt

Mô thức duy tân của Phan Bội Châu

Đứa con cứng cáp của quê hương Nghệ An, quê hương của các kẻ sĩ ham học và yêu nước, dâng cho đất nước nhiều anh hùng, vừa có thư, vừa có kiếm, biết dấn thân để cứu nước. Dưới ách thống trị của thực dân cạnh một triều đại phong kiến hủ bại, Ngài chủ trương cách mạng triệt để qua giáo dục quần chúng, chấp nhận đấu tranh bạo động, Ngài muốn lập nên Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Ngài đi cả nước, gặp các chí sĩ cùng thời: Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp… để bắt mối đồng tâm. Phan Bội Châu kề cận phong trào Cần Vương, Ngài hiểu Cường Để.

Năm1904, lập hội Duy Tân, tại Quảng Nam, năm 1905, Ngài cùng Tăng Bạt Hổ qua Trung Quốc, tại đây Ngài đã gặp Lương Khải Siêu đã khuyên Ngài nên dụng thơ văn để khơi dậy lòng yêu nước của Việt tộc. Đông Du, tại Nhật Phan Bội Châu đã gặp Phan Chu Trinh, nhưng bất đồng ý kiến về hai thể chế, Ngài chọn quân chủ và cụ Phan Chu Trinh chọn dân chủ qua nhân trí. Ngài chủ xướng phong trào Đông Du với hàng trăm du học sinh. Chân trời mới lập ra lý tưởng mới, xuất dương vì yêu nước.

Chủ trương Việt Nam Quang Phục Hội, là phải đuổi Pháp cho bằng được, chúng bắt giam Ngài tại Hàn Châu, Trung Quốc, xử án chung thân, nhưng phong trào bảo vệ Ngài nổi lên khắp nước, lan cả sang Pháp, sang Trung Quốc, thực dân phải đổi án qua: quản thúc. Tầm vóc cách mạng của Ngài là: chính trị đi đôi với văn hóa, trong đó nhân cách chính trị song hành cùng nhân cách văn hóa, đây là mô hình lãnh đạo chính trị với kiến thức uyên thâm của Ngài.

Đây là một bài học vừa hiện đại, vừa cụ thể cho các kẻ lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN: không có kiến thức uyên thâm thì làm sao có văn hóa, không có văn hóa thì làm sao lãnh đạo chính trị? Các tác phẩm của Ngài luôn khơi dậy lòng yêu nước, chống thực dân Pháp, Ngài là người thầy của mô hình giáo dân trong giáo dục (một ngày mà không học là môt ngày bị đe dọa mất nước), vì kiến thức dựng lên nhân tri, kẻ lãnh đạo phải vững nhân trí để trì vị với nhân tâm.

Trong sự nghiệp trí thức của Phan Bội Châu toàn tập (10 tác phẩm, hơn 5000 câu), hậu thế thấy tâm huyết của Phan Bội Châu: «…Đúc gan sắt để dời non lấp bể/ Xối máu nóng để rửa vết nhơ nô lệ…». Trước họa Tàu tặc hiện nay, không có một lãnh đạo nào của ĐCSVN có được tâm huyết của Phan Bội Châu. Trong lịch sử của ĐCSVN, không có một lãnh đạo nào nói lên được huyết lệ như Phan Bội Châu, trước khi từ trần để lại cho mai sau một bài học về lương tri trí thức, về lương tâm kẻ yêu nước: «Tôi có chí mà không có tài… tôi xin chịu tội với nhân dân…». Cuối cùng là không có một lãnh đạo nào của ĐCSVN vì nước-vì dân, nhận vận mệnh của dân tộc theo mô thức của Phan Bội Châu: «Hào kiệt đi đâu, giang sơn trơ đó!».

Các người đã diệt

Mô thức nhân trí của Phan Chu Trinh

“Hỡi những người tuổi trẻ tài cao… rủ nhau đi học mọi điều văn minh”, Phan Chu Trinh cả đời bị ám ảnh bởi chữ văn minh, vì Cụ biết chỉ có chữ đó mới đưa Việt tộc tới con đường phát triển, mới cứu Việt tộc ra khỏi con đường lạc hậu, nô lệ, độc tài… mà hiện nay độc quyền qua độc đảng. Phan Chu Trinh đậu phó bảng, nhận chức Thừa Biện Bộ Lễ. Cụ đi Pháp, sang Nhật, cổ vũ cho một dân tộc phải tìm lối ra bằng văn minh, lấy nhân trí làm nhân tri, lấy nhân tri dựng nhân sinh.

Phan Chu Trinh vừa vận động cho dân chủ nơi mà cải cách đất nước đi đôi với thực hiện dân chủ, dân giàu nước mạnh qua trí của nhân, của khoa học, luận của văn minh. Thời đó, Phan Chu Trinh hiểu dân quyền sẽ tạo cường lực cho dân sinh, chế tác ra dân khí, giúp dân tộc thăng hoa, đây là nguyên tắc căn bản phong trào Duy Tân. Chính sách này với phương pháp luận tinh thông của nó không hề lỗi thời, và nếu chính trị của ĐCSVN mà lương thiện trong chính quyền bằng lương tri trong chính phủ thì phải nghiên cứu thật kỹ, thật rõ đường lối của cụ Tây Hồ để cứu nước-cứu dân.

Phan Chu Trinh thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục (học đường vì nghĩa), cũng là một bài học rất hiện đại và hữu hiệu cho mọi cải cách giáo dục hiện nay, nơi mà chính sách giáo dục đang đi moi tiền-móc túi, từ phụ huynh tới học sinh. Tại sao hiện nay, lại có một cơ chế giáo dục đang bần cùng hóa các gia đình, các bậc cha mẹ bằng học phí quá cao? Trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, cụ viết tại Pháp, ưu tiên cho giáo dục là ưu tiên cho dân trí, trong chủ trương khai trí cho dân, qua kinh nghiệm cụ thể của Pháp, của Nhật…

Với Phan Chu Trinh, giảng dạy đi đôi với diễn thuyết, lấy để luận, lấy tri làm trí… với vai vóc trí thức thật sự, ngược hẳn với các kẻ luồn lách hiện nay trong nền giáo dục đồi trụy học giả-thi giả-bằng giả, không có học thực mà đòi học hàm, không có học lực mà đòi học vị, chưa bao giờ lên đứng trên bục bảng mà đòi chức giáo sư.

Chưa hiểu làm sao lập được luận, kiến thức giả thì làm sao quang minh chính đại thảo luận để tranh luận; bằng cấp giả thì làm sao giải luận qua diễn luận. Buôn chức, bán quyền không sao có chỗ trong kiến thức, trong giáo dục, trong học đường. Các người là lãnh đạo của ĐCSN các người đã diệt mô thức nhân trí của Phan Chu Trinh, vì các người dung túng và nuôi dưỡng bọn học giả-thi giả-bằng giả luôn lẩn tránh hội nghị, hội luận, hội thảo quốc tế, nhưng cũng luôn lén lút buôn giáo dục để tham ô, tham nhũng. Chính các người đã làm nên họa nạn vô học, chính các người đã tạo ra họa, nạn vô hậu cho cả Việt tộc hiện nay.

Các người đã diệt

Mô thức học sĩ Nguyễn Trường Tộ

Học Sĩ nhận hưởng văn hóa phương Tây, mặc dù sinh ra từ một gia đình Nho giáo, Nguyễn Trường Tộ đã thấy rất sớm phải mở cửa để học bên ngoài, mở cửa để chống lạc hậu, để đưa dân tộc đi lên. Nguyễn Trường Tộ hiểu đạo Ki Tô giáo, Cụ có thể theo đạo giáo nầy, nhưng Cụ cũng hiểu là chuyện truyền đạo này cũng có âm mưu với thực dân trong thời đấy.

Nhưng chuyện chính vẫn là chuyện triều Nguyễn thời đó phải tức khắc dẹp chuyện “bế môn tỏa cảng”, bỏ chuyện “ngăn sông cấm chợ”, mà hậu quả chuyện bài thị các sức mạnh của phương Tây về khoa học kỹ thuật gây ra bao hậu quả cho đất nước, cho dân tộc. Chính vì lạc hậu về khoa học kỹ thuật, mới lạc điệu với thời cuộc, để thực dân “đè đầu, đè cổ” dân ta. Cùng lúc đó Nhật Bản đã vào thời đại của Minh Trị Thiên Hoàng để liên tục phát triển cho tới nay.

Chuyện lạc hậu của đất nước Việt trong thế kỷ của Ngài là lỗi của triều Nguyễn, của bọn quan lại vô minh chỉ biết vơ vét tiền của nhân dân: đúng như hoạn bịnh mà xã hội Việt hiện nay đang gánh chịu trong một chế độ độc đảng mà tham quyền sinh đôi cùng tham nhũng. Cuộc đời của Cụ gắn liền với bản 56 bản điều trần lên vua để canh tân đất nước, tâm huyết tri thức và ý lực trí thức của Nguyễn Trường Tộ là ở đây. Cụ chủ trương bước đầu của lãnh đạo của đất nước nên hòa với Pháp để học, nhưng bản thân ngài không hề cộng tác với Pháp.

Cụ phân tích rõ ràng là phải củng cố lương lực, qua các chương trình đào tạo về cơ khí, kiến trúc, kể cả về luật, cùng lúc xem lại toàn bộ các mạch giao thông trên toàn đất nước, và đất nước Việt phải có nông học để tăng mạnh về nông nghiệp. Quyết tâm trí thức của Cụ thật rõ, không ngừng ở lý thuyết, Cụ muốn tham gia tích cực, trực tiếp vào các công trình do chính Cụ đề nghị, nhưng Vua không nghe, bọn tham quan ngăn chặn các công trình này với bao ngờ vực, với bao vô minh của một cơ chế dày đặc bọn tham quan “sâu dân, mọt nước”.

Tình hình đất nước Việt hiện nay, cũng vậy nếu không nói là tệ hơn, với hàng nghìn bản điều trần hàng năm, nếu kể luôn mạng xã hội có thể là hàng triệu bản trần tình để canh tân đất nước, cải tổ cơ chế, cải cách giáo dục… Hậu thế hiện nay, tâm cảnh không xa Cụ bao nhiêu, vì hoàn cảnh “đồng thuyền” với Cụ lắm!

Triều Nguyễn không nghe, gian thần ngăn chặn, Cụ mang bao u uất và rút lui, ở ẩn, nhưng Cụ vẫn viết, vẫn điều trần, vẫn thiết tha với vận mệnh của dân tộc, cho đến khi bại liệt, thành phế nhân. Cả đời Cụ không rời chuyện học, nghiên cứu, thực nghiệm qua mắt thấy tai nghe qua các chuyến Tây du, Cụ thấy rõ một quân đội mà lính là nông dân với giáo, đao, gậy, gộc thì không thể thắng được thực dân có khoa học kỹ thuật trong tay, chúng chỉ cần nả đại bác trước, rồi chúng vào Gia Định, vào Đà Nẵng như vào chốn không người.

Thảm kịch của đất nước trong tay một tầng lớp lãnh đạo của ĐCSVN bịt mắt-bịt tai không nghe trí thức, y như thảm kịch ngày nay của thời độc đảng-độc quyền của ĐCSVN, các người hãy đọc cho kỹ, thấy cho thấu qua lời cuối của Nguyễn Trường Tộ trước khi vĩnh viễn ra đi: “Một kiếp sa chân muôn kiếp hận/ Đất nước Việt này ai là chủ?/ Muốn đem tâm sự hỏi trời đây!”.

Các người đã diệt

Nguồn sống kiến thức của mô thức Trương Vĩnh Ký

Người đời truyền tụng Trương Vĩnh Ký là một kiệt xuất về ngoại ngữ, ông giỏi tiếng Miên, tiếng Lào, tiếng Xiêm, cùng với tiếng Pháp, tiếng Ấn Độ, tiếng Tây Ban Nha, kể cả tiếng Hy Lạp… Kiệt nhân ngoại ngữ, ông đi nhiều, biết nhiều, được hàn lâm viện Pháp mời làm thành viên. Đứa con thông thái của Nam Kỳ, ông là nhà bác học nghiên cứu về khoa học tự nhiên, xã hội, văn hóa… Nhân bất thập toàn, ông học với người Pháp, làm việc cho Pháp khi đó là thực dân đang đô hộ đất nước ta, những kẻ thấy ông được chính quyền Pháp trọng đãi một thời, thì họ «không tha» cho ông.

Trương Vĩnh Ký làm «thông ngôn» cho chính quyền bảo hộ Pháp, thì họ coi như đã «thông đồng» với Pháp, họ mỉa mai ông là: người tài nhưng làm tay sai cho Pháp! Cuộc đời của Trương Vĩnh Ký mang bao nghịch lý, năm1862 ông trong phái đoàn Pháp, đi thương lượng với triều Nguyễn để lấy ba tỉnh miền Đông Nam kỳ; sau đó ông lại theo Phan Thanh Giản qua Pháp để chuộc lại ba tỉnh đó, nhưng thất thành. Ông được các kẻ cầm quyền có tài của Pháp, các trí thức đương thời quý trọng, nhờ các ưu ái này ông được đi thăm nhiều nước Tây Âu, đi nhiều nên thấy nhiều, thấy nhiều nên hiểu nhiều, bao lần ông khuyên triều đình phải canh tân đất nước, nhưng không ai nghe ông.

Trương Vĩnh Ký đủ bản lĩnh làm gạch nối giữa hai văn hóa Âu-Việt theo mô hình của V.Hugo là người ông rất khâm phục: giáo dục và báo chí là hai động lực để một đất nước có được văn minh và phát triển. Năm 1869, Ông cho ra đời Gia Định báo, Ông luôn vận động đưa thanh niên đi du học, với châm ngôn: “phải đi và phải về để phục sự đất nước”.

Trương Vĩnh Ký quan niệm một công dân tốt phải là trò tốt thầy tốt, phải làm được cả hai. Năm 1874, Ông tham gia giảng dạy trường đào tạo tham biện. Năm 1883, viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp, năm 1864 Ông là Cơ mật viện cho vua Khải Định. Năm 1865, có tên Đô đốc Pháp sau khi tấn công các phong trào khởi nghĩa của miền Nam đã dùng lời hăm dọa, yêu cầu ông dịch văn bản của nó ra tiếng Hán.

Trương Vĩnh Ký làm ngược lại là dịch một bài thơ của Bùi Hữu Nghĩa từ nôm ra quốc ngữ: Ai khiến thằng Tây tới đây ha/ Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba/ …Nam kỳ chi thiêu người trung nghĩa. Trương Vĩnh Ký viết Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, Trương Vĩnh Ký dịch Địa Lý An Nam Lịch Sử ra tiếng Pháp, Ông yêu quý văn học nhân gian mà ông gọi là vàng ròng của văn hóa Việt. Ông mến chuộng Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

Trương Vĩnh Ký luôn tham gia tích cực vào việc phát triển đất nước, nhân dân miền Nam thời đó để tên ông vào Tứ bất tử (bốn kẻ không bao giờ chết), vì ông luôn xem kiến thức là nguồn sống: đây là bài học cụ thể cho sinh viên, thanh niên, và là bài học cấp bách nhất cho các lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay, bớt tham quyền mà nên quý kiến thức, để dụng nhân tài, lấy đó làm ưu tiên để phát triển đất nước, để thay đời, đổi kiếp theo hướng thăng hoa cho Việt tộc.

Các người không làm Việt tộc thăng hoa, ngược lại làm cả một dân tộc tụt hậu, trai đi làm lao nô, gái đi làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng. Các người đã triệt nguồn sống kiến thức của Việt tộc, như các người đã có ý đồ tự khi cướp được chính quyền là truy diệt cho bằng được mô thức nhân trí Trương Vĩnh Ký.

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học * Tiến sĩ quốc gia trường gia Cao học khoa học xã hội Paris * Tiến sĩ xã hội học Đại học Nice-Sophia Antipolis * Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa  Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Thành viên Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

 

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s