Sự thật thường xuyên bị ngăn chặn bởi bạo quyền vừa là tà quyền thì nó đổi trắng thay đen sự thật bằng phản xạ điêu ngoa của nó. Chưa hết, qua bộ máy tuyên truyền nhập nội cùng hệ thống công an trị của nó, nó còn dựng lên mọi ý đồ để chặn ngăn sự thật không được phát triển thành sự cố. Khi chặn được sự cố rồi, chúng còn chặn luôn sự kiện hiển nhiên để sự kiện không vào được quỹ đạo của biến cố để thành sự thật. Từ đây, bạo quyền độc đảng luôn ngăn sự phát triển của chủ thể là dùng tự do của mình để khám phá sự thật, tà quyền ngăn luôn kiến thức đi tìm sự thật, để kiến thức được trở thành tri thức, là nơi bảo vệ và giữ gìn sự thật qua thời gian.
Sự thật có mặt trong nạn nhân oan để giải thích hiện tượng bạo động, đó là kiểu giết người của bạo quyền giữa thanh thiên bạch nhật, buộc tội oan một người, một tập thể nhỏ, một cộng đồng yếu để quy chụp những tội mà họ không gây ra. Hoặc biến một lỗi nhỏ của một cá nhân, một nhóm thành tội đồ với tội trạng được phình to ra để hành quyết các nạn nhân oan, như để làm vật tế thần trong một xã hội đang mất niềm tin, đang bị tha hóa. Nhưng chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để phải chết oan, sẽ giải tỏa sự tù hãm của một tập thể, của một cộng đồng, của một xã hội đang mất phương hướng. Một vài côn đồ, du đãng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn cho tới chết một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình, một xã hội cho phép đòn thù để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác, che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa.
Sự thật có mặt trong thi thể của nạn nhân, trong sự thật Việt làm nên số phận Việt hiện nay đang diễn ra hằng ngày là một vài công an có thể đưa người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử! Nhưng không một tên công an sát nhân nào bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án. Gia đình của nạn nhân oan này không dựa được vào pháp luật, vì tư pháp hiện nay không hề liêm chính, vì bọn xã hội đen này lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả lương. Đây chính là độc lộ của dân chúng trong xã hội ngập bất công mà một công dân có thể bị ép vào tử lộ để đi thẳng từ dân oan tới nạn nhân oan, vô tội đã trở thành tử tội. Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ sẽ là chứng nhân đang tính chuyện bỏ bè rời đảng trong một tập đoàn tội phạm. Bè đảng này có thể thủ tiêu chứng nhân này, để trút xả mọi cuồng bạo của nó mà bất chấp pháp luật hiện hành, một xã hội có mức độ bạo động cao, có cường độ bạo động thường trực như xã hội Việt hiện nay, thì chuyện “thí mạng” nạn nhân oan là một chỉ báo để nói lên sự thật: khi bạo quyền trở thành tà quyền mà sẵn sàng giết người, thì nó rất dễ dàng giết luôn đạo lý lẫn luân lý, diệt luôn giáo dục lẫn văn hóa.
Sự thật có trong bạo lực của bạo quyền, có trong định nghĩa sự bạo động, thì đường đi nẻo về của nó là sự giết hại từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nhìn về sự bạo động, ta thường nghĩ là ta không phải là thủ phạm, mà kẻ khác mới là thủ phạm, nhưng trên đạo lý làm ra đạo đức khi ta nhắm mắt để bỏ qua các tội phạm, thì ta đã đồng lõa với tội ác, và cứ để tội ác tiếp diễn và lan tràn, thì luân lý học gọi tên nó là: đồng phạm! Hãy xem xét chuyện đi tìm sự thật bằng hành động của mỗi cá nhân thiết tha sống vì sự thật, kết tụ với những hiểu biết khác nhau lại để cùng chung sức dựng lại hay dựng lên một sự thật đang bị vùi lấp. Sự kết hợp các quan điểm qua các tri thức khác nhau, các kinh nghiệm khác nhau, nhưng khi nhập lại làm một tổng hợp đủ lực tạo ra một viễn ảnh ngày càng sáng, một chân trời ngày càng tỏ, giúp chúng ta cùng nhau đi tới mà nhận diện ra sự thật đó thì Platon gọi là hành động truyền thông liên kết có lực kết hợp.
Sự thật trao quyền sống đúng, không ai là nạn nhân của bất công. Trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân, trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống, không ai là dân đen, dân oan của ai cả; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức.
Sự thật dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng trong khi ta đi tìm sự thật. Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán, tà quyền không thể chính trị hóa toán học được nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn. Và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị các ma quyền truyền thông này giật dây, vu cáo, chụp mũ…. Nên từ đây, xã hội học hiện đại đã là một kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộng ngôn của ma quyền truyền thông. Một sự thật muốn vững trong không gian để bền với thời gian là một sự thật biết tự phòng vệ!
Sự thật về nhân phẩm nơi mà con người là một cá nhân với đời sống xã hội của nó, là thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của nó trong tổ chức xã hội nơi mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột hoặc hợp tác của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội. Khi cá nhân có quyền lực vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng quyền lực thì chính tư lợi đã ngăn chặn không cho các cá nhân khác và tập thể thấy hết được sự thật. Chính sự đấu tranh ngay trong xã hội đó sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy rõ bạo quyền dính tới tham nhũng, tà quyền tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả bọn này đều là buôn gian bán lận trong không gian âm binh của chúng, và chúng biết lách luật để né luật, thậm chí tráo luật để xé luật, để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.
***
Tự do: chủ lực của chủ thể
(Định nghĩa, định đề, định luận)
Chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai.
Tự do có trong nhân tính có từ khi con người phải tự gầy dựng cho mình một chương trình, một dự phóng, một tương lai nếu con người không dựa vào được thượng đế, thần linh hay tôn giáo hoặc dị đoan để trực tiếp gánh số kiếp của mình. Tự do hiện diện trong chất sống của một cá thể, luôn được củng cố bởi các phương án của cá thể đó trong suốt quá trình sinh tồn của mình: tự thân trong tự chọn để tự chủ trong tự tin, là chỉ có mình mới nuôi, mới sống cho mình, nghĩa là chỉ có mình mới tự cứu mình được mà thôi.
Tự do của nhân vị, khi được định vị, định hình, định dạng qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp: tự do là tự do, thì tự do không còn cần tới cách giải quyết siêu hình (học) là con người sinh ra và số phận của nó thuộc về hoặc nằm trong tay đấng tối cao là thượng đế. Bản chất của tự do là vô thần, vì nội chất của tự do là vô thánh, nhưng tự do không vô đạo, nếu định nghĩa đạo là con đường, thì chính tự do là con đường để nhân sinh đi đúng vào hướng của nhân tính.
Tự do là quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta. Tự do là quyền hành động, hành động để nhân cách của chúng ta được tôn trọng trong nhân phẩm của một nhân tính trọng nhân quyền, quý nhân tri, yêu nhân trí để nhân thế được tự do chọn lựa nhân nghĩa, nhân tự, nhân đạo, tức là nhân bản.
Tự do đi tìm sự thật từ chính trị qua kinh tế, từ tâm linh qua tôn giáo, từ dấn thân qua cách mạng, nhưng kẻ đòi tự do cho sự thật phải trả giá cho sự chọn lựa của mình và tự do chân chính luôn đòi hỏi chuyện: đúng giá! Tự do luôn có tri thức sống động để chống lại chuyện: quá giá và phá giá! Vì tự do luôn mang lý trí sinh động chống lại tham ô, tham nhũng của bọn tham quan, tham quyền sống nhờ quá giá và phá giá, mà nội chất của bọn này là: cờ gian, bạc lận.
Tự do cận kề nhân phẩm, khi nó nhận ra chính nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành sẽ cứu nhân thế còn nhiều điều xấu, tồi, tục, dở, khi chính tự do dùng nhân phẩm để xem, xét, khảo, tra nhân loại còn lắm chuyện thâm, độc, ác hiểm, trong đó nhân sinh vẫn còn là nạn nhân của nhân tình, khi nó đã mất nhân tính.
Tự do song hành cùng nhân đạo, khi nó chọn đạo lý để giữ khoan dung, đạo đức để nắm rộng lượng, luân lý để nâng vị tha. Khi cái bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) còn đang tung hoành bởi cái độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) qua độc đảng, đang ngày ngày làm kiệt quỵ sinh lực của hệ hiệu (hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả) vì cái độc này đã giết ngay trên thượng nguồn hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) thì định nghĩa năng động nhất của tự do là: tự do sáng tạo!
Tự do luôn là tự do có điều kiện, điều kiện nhân phẩm dùng nhân lý, nhân tri, nhân trí để củng cố, để thăng hoa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, để đưa nhân tình, nhân thế, nhân loại vào đúng quỹ đạo của nhân quyền: sống chung vì đáng sống. Nếu tự do không có điều kiện sẽ là tự do trong tự sát, vì nó biến cuộc sống thành địa ngục, cuộc đời thành âm phủ. Tự do luôn là tự do có điều kiện vì nó muốn lánh địa ngục, xa âm phủ, vì nội chất của nó là sống hay, sống đẹp, sống tốt, sống lành, chớ không phải sống tồi, sống tục, sống dở, sống nhục.
Tự do là trụ cột của cá nhân, là cá thể có cá tính, tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội. Chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.
Tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn “sâu dân, mọt nước”.
Tự do là lực để chống ngoại xâm, tức là chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc Kinh, không có nhân cách mà ta có thể gọi chúng là: Tàu tặc, với ý đồ muôn thủa xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho Tàu tặc đang lẩn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo “hèn với giặc, ác với dân”, vì chúng đã vong thân và đang chờ vong quốc.
Tự do là rễ của tự trọng, hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể.
Tự do là cội của nhận thức, của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, có tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng. Không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự do là nguồn của sáng tạo, của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là giàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng để đưa xã hội vào quỹ đạo trong đó cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước.
Tự do là nền của nhân văn, của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại.
Tự do là trụ của nhân bản, của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sỉ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.
Tự do đón nhân tri như tự do đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự do đón nhân tri như tự do chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, cam chịu tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng cần lao để phát triển, phát minh để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên.
Tự do là vốn để chống độc quyền, của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật…. Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục.
Tự do để giải phóng tư tưởng, tự do không trừu tượng, tự do có hai thế thăng bằng: thân thể và tư tưởng, trong thân thể có thể xác của cá nhân mà bản thể là sự trao truyền sự sống tới từ cha mẹ và tổ tiên, trong tư tưởng có tư duy và tư lợi, tư duy theo phương hướng của tri thức tạo nên ý thức, tư lợi theo định hướng phòng thân, thủ thân, lập thân. Tự do không mơ hồ, không tự sát, không ai chống một cá nhân được quyền tự sát, nhưng tự do của nhân sinh là để bảo vệ thân thể và tư tưởng, như bảo vệ hai thế thăng bằng khác: sự sống và sự tồn tại, chính cái quyền được sống là định nghĩa đầu tiên của tự do, chính cái quyền được tồn tại là định nghĩa thứ nhì của tự do. Cả hai định nghĩa này làm nên tính duy lý, hợp lý và chỉnh lý trong động cơ của tự do: hành động của tự do.
Lê Hữu Khóa
(13/12/2019)
Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie, Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc, Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.
Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.