Chủ Thể Của Chủ Trị

Minh vương xưa: những bài học về chủ thể

Chủ thể của quyết đoán để quyết chí

Chủ thể có ý chí để quyết chí làm đời sống khá hơn, làm cuộc sống đáng sống hơn, nếu lấy đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý, lấy khuôn quyết tâm thành quyết chí trong hành động dài lâu và bền vững trong đấu tranh vì tự do, công bằng, bác ái. Chủ thể có luận biết dựa trên luân lý, có hành động cụ thể bằng ý chí, khi có định nghĩa về tự do thì trí tuệ sẽ đưa chủ thể vào hành động. Chính phương trình luậnluân lýý chí là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi hành động của chủ thể, được thể hiện không những trong thực tế hằng ngày mà còn là lý tưởng của chủ thể trong đấu tranh. Chủ thể có lý trí ý thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc…. Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng. Chủ thể có lý trí để hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này. Chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau.

Hãy cùng nhau nhận ra chân dung chủ thể của Đinh Tiên Hoàng, với tầm vóc quân sự của Ngài lớn vì tầm nhìn tổ quốc của Ngài xa, có được là nhờ tầm cỡ chính trị của Ngài cao, dẹp được thập nhị sứ quân, để thống nhất đất nước – đó chính là bản lĩnh vời vợi của Ngài. Chuyện loạn lạc bởi đám sứ quân này nằm trong quy luật khủng hoảng của các triều đại phong kiến, mỗi lần có một ông vua suy đồi là cả xã hội bị suy thoái, có nội chiến vì vô chính phủ, có bạo động vì đầy bất công, cá lớn nuốt cá bé. Ngài dẹp lũ sứ quân này cho đất nước được trở lại thanh bình, ngừng hẳn mọi giết chóc của một thời cuộc mà người với người xem nhau như lang sói. Sự bất tài của một vương triều, vương triều đó phải nhận trách nhiệm như bọn sứ quân, cả hai phải chịu lỗi trước dân tộc, nếu không nói là tội! Tội thì chắc chắn nặng hơn lỗi, không những về hậu quả nhân sinh mà về cả hậu quả nhân đức, với sự suy sụp của giáo lý.Với bối cảnh loạn lạc của các sứ quân là có mầm mống trong xã hội Việt hiện nay, với người dân luôn “ngắn cổ, bé họng” trước bạo quyền, từ xã, thôn, làng, xóm lên tới vùng, miền, thành phố, chịu cảnh “ngậm bồ hòn làm ngọt” trong một hệ thống công an trị, nơi mà tham quyền song hành cùng tham nhũng. Với các câu ngạn ngữ mới của cường quyền ác bá thời nay: “ở đâu ăn đấy”, làm tướng tá thì ở biệt thự, biệt phủ giữa cái nheo nhóc của dân đen. Với các câu châm ngôn mới của quan lớn, quan bé, lạm quyền nhờ bạo quyền “ở trên ăn nhiều, ở dưới ăn ít”. Bọn “sâu dân, mọt nước” này còn nghĩ là chúng có lối thoát mà thời của Tiên Hoàng không có là: “vơ tới cùng, vét tới tận” cho đầy túi, đến khi sơn hà nguy biến thì chúng sẽ “cao chạy, xa bay” ra ngoại quốc! Chúng lầm, những quốc gia phương Tây dân chủ mà chúng chắc bẩm là sẽ yên thân để dung thân tà kiếp của chúng là những quốc gia luôn đấu tranh cho nhân quyền. Cho nên, ông bà ta nói gọn trong ẩn số kiếp người là: “lưới trời lồng lộng”, tức là “chạy đằng trời chẳng thoát”! Vì “trời có mắt”, tức là “nhân quyền có thần nhãn”, sẽ mang chúng ra xử tội (tội hình sự) với công pháp quốc tế, lúc đó chúng mới hiểu rõ câu của ông bà ta: “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”.

Chủ thể lấy tài chống hoạn vì thịnh trị

Chủ thể tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bão đẹp, mang trách nhiệm cao.Trong ý chí được biến thành tự hành động, thì sự thông minh của tự do là tự do cẩn trọng, tự do làm ra cuộc sống phải được xem là đáng sống, không chạy theo các hoài bão mộng tưởng hão huyền. Chủ thể biết tự giải phóng trong thông minh của hành động, tức là không liều lĩnh chết người, vì tự do trong tàn phá, trong bạo ác chỉ là tự do của tự sát, vì nó không biết xây mà nó chỉ biết diệt. Chủ thể mang nội lực của sự cẩn trọng: từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định sáng suốt tới hành động tỉnh táo; nên giữa tự do luôn có hai thực chất: can đảm và cẩn trọng.

Chân dung chủ thể theo có tiêu chí này có trong cuộc đời và sự nghiệp của Lý Thái Tổ. Năm 1009, Ngài lên ngôi hoàng đế, lập kỷ nguyên mới, một triều đại trị vì trên dưới 200 năm. Từ lập triều tới lập quốc, Ngài có minh sư Vạn Hạnh đưa đường dẫn lối, sử Việt luôn nhớ Ngài phát triển không những nông nghiệp mà cả kinh tế đồng bằng, dân trí mở mang, trường học xây lên cùng đền chùa, đất nước có giáo dục ổn định, dân tộc có đời sống tâm linh cao. Năm 1076, Lý Thái Tổ cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu, được xem như là trường đại học đầu tiên của nước Việt. Ngài sáng suốt, nhìn xa trông rộng, đưa binh lính về làm ruộng trong thời bình, Ngài cho lập các bản đồ biển đảo, định hình đất nước qua địa lý chính thống. Cả nước ghi nhớ công của Ngài dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vì Hoa Lư là địa thế của phòng ngự quân sự, không thể là thủ đô để phát triển kinh tế. Hoa Lư chật hẹp luôn bị lũ lụt, khó là nơi định vị của một thủ đô muốn phát triển toàn bộ. Ngài là minh quân vì Ngài có chủ trương với các ưu tiên chiến lược từ đó mới có thịnh trị. Triều Lý của Ngài lấy việc chỉnh đốn triều chính, lấy tài để chống hoạn, chống lãng phí, trừ bọn tham quan, tạo hùng lực mới cho đất nước. Không như lãnh đạo hiện nay, không những nhân dân không thấy phương hướng đối ngoại của họ trước họa Tàu tặc, mà còn dở khóc, dở cười trước trò thanh trừng lẫn nhau giữa bọn họ qua các khẩu lệnh chống tham nhũng, trong khi thống kê thế giới vẫn tiếp tục xếp Việt Nam hiện nay là quốc gia tham nhũng loại thậm tệ nhất. Đây là cái độc tôn vô cùng trầm trọng của lực lượng độc quyền vì tham quyền của ĐCSVN, độc đảng trong độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị, lại không có bản lĩnh kinh tế, không có nội công lập ưu tiên phát triển đất nước, nên không thể nào có thịnh trị, là nguồn cơn của dân Việt nay bỏ xứ ra đi, có kẻ phải làm lao nô, phụ nữ thì gia nô, dân tộc ngày càng nheo nhóc!

 

Chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực

Chủ thể đưa lý trí lên hàng đầu, vào hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, chủ thể chống lại sự vô cảm, chủ thể dẫm lên sự hèn nhát, vì chủ thể biết chống vô nhân. Chủ thể đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành. Chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành. Chủ thể biết bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh của chủ thể biết thăng hoa trong các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do. Chủ thể hiện diện trong các phong trào đấu tranh vì công bằng và công lý của dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết. Chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền của các phong trào ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, Liên Hợp Quốc, và các châu lục đã có tự do. Chủ thể hành động bằng tự do trong đấu tranh vì nhân phẩm của dân tộc, nên dân tộc không bao giờ bị coi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên họ. Các chủ thể luôn được dân tộc tôn vinh, và càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh trước thảm phận của Việt tộc với họa ngoại xâm của Tàu tặc, trong họa nội xâm của bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền.

Hãy tìm về với Trần Thái Tông để nhận ra chân dung của chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực. Ngài là vị Minh Vương mang nhiều bi kịch: Thái Sư Trần Thủ Độ (là chú ruột) với âm mưu để cho nhà Trần có người nối ngôi đã ép Ngài phế bỏ Lý Chiêu Hoàng là người vợ thân yêu đồng thời cũng là người đã trao cho Ngài ngôi vua (từ nhà Lý sang nhà Trần) để lập Thuận Thiên (chị ruột của Lý Chiêu Hoàng) làm Hoàng Hậu khi bà này đã có thai 3 tháng với anh của mình là Trần Liễu. Ngài đã từ bỏ ngai vàng để đi tu vì không chịu nổi cảnh loạn luân của nội hôn này. Trước cảnh sơn hà nguy biến khi bọn Nguyên Mông đến xâm lăng, Ngài trở về ngai vua chỉ để nhận trách nhiệm bảo vệ nước nhà. Ngài làm vua trọn vẹn khi bước vào cuộc chiến chống quân Nguyên Mông hung hãn, kẻ đã xâm lược qua tới Âu Châu, làm cả thế giới khiếp sợ. Với những lời quyết thắng quân Nguyên Mông năm 1228, nhân dân công nhận Ngài là đấng Minh quân của nhà Trần. Ngài còn là một tác giả lớn với tác phẩm Khóa Hư Lục được nhân dân truyền tụng mến yêu. Ngài vừa làm vua, vừa tu tại gia, mỗi sáng Ngài dậy sớm tu trong thiền tập, niệm Phật bằng tâm. Ngài để những án văn, án kệ xuất sắc cho hậu thế. Thảm cảnh nội hôn không làm tâm cảnh của Ngài hỗn loạn. Qua bài kệ Tâm Hương, thấy rõ Tâm Ngài sáng, trí Ngài thông, tuệ giác Ngài tinh khiết, sự trong sạch của tâm hồn làm nên sự trong sáng cho trí tuệ, tạo nên sự sáng suốt tăng tầm vóc thông minh, thật hiếm có trong Việt sử.

Bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang lúc nhúc như ký sinh trùng quanh tập đoàn lãnh đạo của ĐCSVN, chúng nghĩ sao khi:

  • Đất nước đang lâm nạn xâm lược của Tàu tặc, mà mình ăn sung mặc sướng vì tham quan bằng tham ô để tham nhũng. Sống trong biệt phủ, biệt thự trước thảm cảnh của hằng triệu dân oan màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ?
  • Đồng bào đang nhận đại nạn của ô nhiễm từ công nghiệp bẩn, hóa chất độc, thực phẩm bẩn, với các làng ung thư mọc lên nhan nhản đã và đang đe dọa giống nòi Việt?
  • Việt tộc đang ngày đêm nhận, chịu bao thảm họa tới từ Tàu tặc ngoài biển khơi, Tàu nạn từ các nhà máy nhiệt điện, Tàu họa từ bọn côn đồ, du đãng tới từ đất nước Tàu hoạn của chúng, Tàu tà không những buôn con dân Việt để làm lao nô, nô tỳ cho chúng mà chúng còn sẵn sàng giết người để trộm, cắp, cướp, giật nội tạng?

Chủ thể của trọn vẹn nhân tâm

Chủ thể của hệ đạo, nơi mà đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý qua trách nhiệm và bổn phận với đồng loại, với tha nhân; luôn để cá nhân được quyền chọn lựa. Từ đây, nền luân lýquyền chọn lựa được hội tụ, không hề rời nhau, vì nếu không có quyền chọn lựa thì sẽ không có luân lý. Chủ thể luôn mang hệ lý, có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận để diễn luận từ gốc tới ngọn, từ nguyên nhân tới hậu quả. Chủ thể giải quyết để giải phóng kiếp nạn nhân, phải xác minh luôn phương tiện của chủ thể qua các công cụ có chính nghĩa vì có nhân đạo. Cách nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện” chỉ là cách nói của kẻ nếu không muốn tự sát thì chóng chầy cũng trở thành sát nhân. Chủ thể nuôi tự chủ bằng chủ lực của nhân nghĩa, biết rời bản năng ăn tươi nuốt sống tức là giết để ăn, để nuôi thân, để được tới bản thể ăn ở có hậu, có ngày mai được chung sống qua công bằng với đồng loại, như cá thể có thông minh tôn trọng nhân loại, trong hùng lực của chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng, có bổn phận với đồng bào, đồng loại. Chủ thể nhận rõ lịch sử của nhân loại, và sắc nhọn nhất là triết học cho ra đời phạm trù của tự do chính là thông minh của lý trí, tạo nên trí tuệ. Thí dụ điển hình là ngay trên cổ sử và cổ triết của Hy Lạp là một xã hội có nô lệ và đã bóc lột nô lệ, nhưng thông minh của chủ thể đã biết chế tác ra tư duy tự chủ để làm nên các lý luận về tự do, mà còn sáng tạo ra cả một tư tưởng về Dân Chủ. Chủ thể làm tự do trở nên sắc nhọn ngay trong sinh hoạt chính trị, trong các thể chế độc tài, trong các chế độ toàn trị mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm.

Trần Nhân Tông bằng trọn vẹn nhân tâm, đầy đủ tuệ giác, bản lĩnh tỉnh táo của nhân từ đã xây dựng được khối đoàn kết cho dân tộc trước họa xâm lược của Nguyên Mông. Chính nội công sáng suốt của nhân từ đã làm được kỳ công điều binh, khiển tướng của Ngài trong bối cảnh chỉ mành treo chuông của Việt tộc trước bọn ngoại xâm đầy tàn bạo, nhưng vẫn thua trận vì chúng không có nhân từ. Câu chuyện nhân từ trong cuộc đời minh quân của Ngài không phải là câu chuyện lòng trắc ẩn của Mạnh Tử, cũng không phải là lòng thương hại trong các đạo giáo; mà nó là câu chuyện lấy nhân để cứu nhân. Đây là sự thông minh ở trên cao, trùm phủ xuống mọi định nghĩa về sự thông minh, đây là trí khôn của nhân lý và lý trí của nhân tri biết tìm về nhân nghĩa mỗi lần nhân thế xa nhân đạo. Và chỉ có Ngài mới có tầm vóc này để lập nên phái Trúc Lâm Yên Tử lấy Phật tại tâm để chế tác ra tâm tại thế! Thiếu nhân từ, vắng nhân nghĩa, trống nhân bản, rỗng nhân văn vừa là hằng số cũng vừa là ẩn số của các lãnh đạo ĐCSVN từ khi thành lập đảng cho tới ngày hôm nay. Họ đã và đang đưa Việt tộc tới cõi suy đồi từ đạo lý tới linh hồn. Đây là thật bại lớn của các lãnh đạo ĐCSVN, giữa các thất bại lớn khác về kinh tế, xã hội, dân chủ, nhân quyền… vì họ thành lập đảng, xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng, bảo vệ đảng trên hành vi bạo ngược, với hành động bạo quyền, lấy bạo động để diệt nhân từ, lấy bạo hành đẩy nhân dân ngày càng xa, càng biệt nhân từ. Không có nhân từ, nên các lãnh đạo ĐCSVN trở nên nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo… Thí dụ điển hình là tuần này với lòng nhân từ, các Phật tử vào mùa phóng sinh với lòng thành từ bi, yêu muôn loài như yêu chính mình. Phóng sinh để trả lại cuộc sống cho cuộc sống, trả lại tự do cho tự do! Vậy mà các lãnh đạo ĐCSVN cũng xen vào để “thả chim, thả cá”, họ nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo… vì là giả, dối, láo, xạo, không có lòng thành nhân từ thì phóng sinh chỉ là một màn kịch xấu, tồi, tục, dở. Muốn có lòng thành nhân từ rất dễ, các vị này hãy thả ngay! Hãy “phóng thích” ngay! Hãy trả tự do ngay cho các tù nhân lương tâm, đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng, tức là vì nhân từ cho toàn xã hội. Thật dễ không hề khó, nhất là đối với các lãnh đạo ĐCSVN có quyền “sinh sát” với dân đen, dân oan, dân chúng…. Thật quá dễ khi các vị chỉ để ra vài phút trong ngày, vài giờ trong tuần, vài buổi trong tháng, để đọc, để hiểu, để thấu những gì mà Phật hoàng Trân Nhân Tông đã nói, đã viết, đã tâm sự tự tâm!

Chủ thể có lý trí của công minh

Chủ thể không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhâm phẩm hóa nhân loại. Chủ thể đứng về phía đối kháng chống bất công, là đứng về phía của kẻ yếm thế trước bạo quyền, là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng. Chủ thể đặt quyền lực vào đúng chỗ nó để nó dùng công lý mà xử bất công, giúp công dân có tự do trong tư duy để có tự do vận não với các hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa…. Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý chí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý: tự do trong công bằng và bác ái, từ đó đấu tranh để xã hội công nhận đạo lý tự do-công bằng-bác ái vừa như nguyên tắc, vừa như khuôn mẫu cho mọi hành động xã hội, từ chính quyền tới cá nhân, từ tập thể tới cộng đồng… luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tộc. Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự do đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả của hoàn cảnh, vì tự do đến từ tư duy của con người dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý, đạo đức, của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.

Lê Thánh Tôn có mang sự sáng suốt của chân dung chủ thể với các tiêu chí được nêu trên, với triều Lê mang nhiều tai tiếng, nhất là qua chuyện hãm hại các công thần: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Ngài là vị vua được xem như anh minh, tài giỏi, có văn hóa, thiết tha canh tân đất nước, chăm lo cho dân tộc. Từ triều đại của Ngài mới có câu: nhân tài là nguyên khí của quốc gia, quyết tâm sử dụng nhân tài qua thi cử, không để lan tràn chuyện “con ông cháu cha” như trong chế độ độc đảng hiện nay, Ngài ngăn chặn chuyện “con quan thì được làm quan”, như hiện nay với hiện tượng “thái tử đảng”, đảng đây là ĐCSVN. Dưới triều của Ngài, thì nước mạnh nhờ nhân tài, thời đó xã hội có vẻ còn công bằng hơn xã hội của “tiền tệ-hậu duệ-quan hệ” ngày nay, nơi mà ĐCSVN đã và đang đưa Việt tộc lùi vào vực thẳm tối mù trước toàn cầu hóa của tri thức truyền thông. Ngài dùng quyền lực của mình để đề cao chủ quyền của đất Việt, để thẳng lưng bảo vệ quê hương, đây là một bài học khác -rất quý- mà lãnh đạo ĐCSVN phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối để học Ngài. Chưa hết, Ngài luôn củng cố quốc phòng, điêu luyện hóa quân sự, ban hành các chính sách cải tiến vũ khí cho quân đội, Ngài phát triển kinh tế không những qua nông nghiệp, mà còn qua thủ công, thương mại…. Hay nhất là các cải tổ về văn hóa, xuất sắc hơn nữa là bộ luật Hồng Đức dưới sự chỉ đạo của Ngài, được xem là một bộ luật hoàn chỉnh trong lịch sử Việt, với tính pháp quyền cao. Nhân bất thập toàn, Ngài cũng mang những tai tiếng của một cá thể không vượt qua được các gọng kềm phong kiến trong các quy luật tranh giành quyền lực.

GS Lê Hữu Khóa

***

Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s