“Vơ đũa cả nắm”
Đây là câu bạn trách tôi, nhưng tôi phải cảm ơn bạn, vì: “vơ đũa cả nắm” chính là hình tượng mà tôi dùng để định nghĩa các chế độ độc đảng-toàn trị, chúng ngự một mình trên cao để vơ vét. Bản chất của chế độ chính là mâu thuẫn của quản lý, vì nó không sao giải quyết được các hoài bão dân chủ và các nguyện vọng nhân quyền. Nên nó phải lấy hết sinh lực của nó để tái sản xuất cái ngu bằng cái ác. Cụ thể là nó độc đảng trong độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, mà muốn tồn tại thì nó phải toàn trị trên toàn bộ đời sống xã hội, trên toàn thể sinh hoạt xã hội, trên toàn khối quan hệ xã hội, vừa qua tuyên truyền, vừa qua đàn áp. Nó dùng sinh lực của nó để kiểm duyệt thông tin, kiểm soát trí tuệ, kiểm định đối kháng, nó không ngần ngại thanh tra để thanh lọc, thanh trừng để thanh toán ngay cả đồng đội, đồng chí của nó, nên nó dễ dàng bước từ cái độc tới cái ác. Đây chính là quá trình giải luận của tội phạm học thấy cái ngu dẫn tới cái xấu, hiểu cái xấu dẫn tới cái độc, thấu cái độc dẫn tới cái ác; mà ngu-xấu-độc-ác là một phương trình trong đó có hằng số: khi tội phạm cầm quyền thì tội ác cầm dao, cầm súng để truy-giết-hủy-diệt những cái hay, đẹp, tốt, lành trong nhân tính bạn à!
Một chế độ độc đảng-toàn trị biết là nó không sao “bao thầu” tất cả mọi quan hệ xã hội, biết là nó không sao “cáng đáng” nổi tất cả mọi đời sống xã hội, biết là nó không sao “xiết cổ” nổi tất cả mọi sinh hoạt xã hội, nên nó phải “vơ đũa cả nắm”! Tôi thành thật cảm ơn bạn đã dùng ngạn ngữ “vơ đũa cả nắm” giúp tôi biến thành định nghĩa mà vạch mặt chỉ tên chế độ độc đảng-toàn trị của ĐCSVN hiện nay đang vùi dập số phận của Việt tộc xuống bùn nhơ. Giờ đây, tôi lại có luôn đường đi nước bước rõ ràng khi biến định nghĩa “vơ đũa cả nắm” để lột mặt nạ chế độ độc đảng-toàn trị của ĐCSVN, vận dụng như các chỉ báo để nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã, và các chỉ báo này rất dễ hiểu qua bốn hệ sau:
– Hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn).
– Hệ toàn (toàn trị, toàn bộ, toàn thể, toàn khối).
– Hệ kiểm (kiểm duyệt, kiểm soát, kiểm tra, kiểm định).
– Hệ thanh (thanh tra, thanh lọc, thanh trừng, thanh toán).
Các chỉ báo này giúp tôi phân loại các thế hệ lãnh đạo của ĐCSVN ra từng thành phần trong từng giai đoạn khi họ đi từ tội phạm này sang tội phạm khác, từ tội ác này sang tội ác khác. Qua phương pháp phân loại hóa (catégorisation) của xã hội học; và khi tổng kết về các chế độ độc đảng-toàn trị trên thế giới, thì tôi thấy câu nói của tổ tiên ta rất đúng: cá mè một lứa! Tôi lại xin trở lại cấu trúc của phương pháp này đã dựa trên nhiều phương pháp khác của KHXHNV, nếu bạn không biết các phương pháp này thì không phải lỗi tại tôi, mà là lỗi của nền giáo dục đại học hiện nay do độc đảng quản lý với thực trạng học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả; vì vậy bạn nên cẩn trọng khi buộc tội người khác, đây là những phương pháp cần biết khi tiếp cận với nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã thực địa:
– Chức năng luận (Fonctionnalisme) là phương pháp tương đối phổ thông trong KHXHNV đề nghị nghiên cứu về tổ chức qua chuyên môn của chức năng, để khảo sát các quyết định trong hành chính, từ đó tổ chức sự vận hành của cơ chế, cùng lúc nghiên cứu luôn các khủng hoảng có thể xẩy ra không những trong cơ chế mà còn lan tỏa ra xã hội. Chức năng luận chuẩn đoán những khủng hoảng qua định nghĩa để định vị chức năng, tại đây lý luận mọi tổ chức là một tập hợp của các chức năng khác nhau được xếp theo hàng dọc rồi hàng ngang, để giới hạn các tự do của cá nhân, và cá nhân chỉ được đánh giá qua chức năng. Chức năng luận chỉ thấy mỗi cá nhân là một con số, không có cá tính, chỉ có chức năng, chỉ là một phần tử trong một tập hợp chính là guồng máy. Từ sáng kiến tới sáng tạo cá nhân không được tôn vinh, từ đó nó duy lý hoá một cách máy móc mọi quan hệ xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, mọi đời sống xã hội. Nó lý luận cạn tàu ráo máng là mọi chức năng, mọi phần tử đều có thể thay thế được, như người ta thay thế cầu chì, bóng đèn là điện cứ phát điện, nên khi áp dụng vào nhân sinh, thì nó càng ráo máng cạn tầu hơn, vì nó luôn có ý đồ vắt chanh bỏ vỏ! Đây là cách đối nhân xử thế giữa những người cộng sản, mà lãnh đạo của ĐCSVN rất nhẫn tâm trong vô cảm khi họ thành trừng nhau. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới này điều bị vướng vào tội ác này, không những thanh trừng nhau mà họ còn tàn sát dân lành, họ diệt chủng luôn chính dân tộc họ, đó là trường hợp của bọn diệt chủng Khmer đỏ. Nên khi định lượng về các cuộc thảm sát do các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới, từ khi có chế độ độc đảng-toàn trị tại Liên Xô 1917, thì con số nạn nhận đã vượt lên hơn một trăm triệu người, gấp nhiều lần tội ác của bọn Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến. Chức năng luận là con dao hai lưỡi, khi nó được dùng để tổ chức các nhà máy trong giai đoạn xây dựng công nghệ cơ khí và sản xuất xe hơi, thì nó làm ra bao của cải cho các nước phương Tây, nhất là Mỹ; nhưng khi nó bị các lãnh đạo các đảng cộng sản trên thế giới vo tròn bóp méo nó, thì hậu quả của nó thật tán tận lương tâm!
– Cấu trúc luận (structuralisme), tìm cách đi ngược lại với chức năng luận, nếu chức năng luận lý luận là mọi chức năng, mọi phần tử, mọi bộ phận đều có thể thay thế được, hư thì vất đi, thế bằng cái mới thì nguồn máy sẽ hoạt động trở lại; đây là bản chất máy móc trong quan hệ giữa phần tử và tổng thể. Cấu trúc luận thì lý luận ngược lại là quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội là những tổng thể sống như cơ thể của con người, phần tử này tùy thuộc phần tử kia, bộ phận này lệ thuộc vào bộ phận kia, nên chức năng này được định nghĩa và định vị bởi chức năng kia, làm nên quan hệ sống còn của nguồn máy, của tổ chức, của cơ chế. Cụ thể là khi tim ngừng đập, thì các nội tạng khác sẽ ngừng theo, và thân thể sẽ chết, chính tính lệ thuộc lẫn nhau này làm nên quan hệ tùy thuộc nơi mà một tổ chức là tập hợp những phần tử, phần tử này sống nhờ phần tử kia. Quan hệ sinh tử này được ứng dụng trong dân tộc học mà tên gọi hiện nay là nhân học để giải thích quan hệ huyết thống từ gia tộc tới thống tộc, theo hàng dọc tự tổ tiên tới con cái, cháu chắt, làm nên quan hệ sống còn trong trật tự gia đình. Cấu trúc luận không ngừng ở dân tộc học, xã hội học… mà còn đi sâu vào ngôn ngữ học, khi nó giải thích trong một câu luôn luôn có: chủ từ, động từ, túc từ, chỉ cần một trong ba phần tử này mất đi, thì ngôn ngữ sẽ không sử dụng được, sẽ đưa đối thoại, trao đổi, truyền thông đi vào ngõ cụt, tức là không ai hiểu ai hết! Cấu trúc luận xếp cá nhân vào trật tự sống còn của tập thể, nên nó tổ chức luôn nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của cá nhân. Tại đây, cấu trúc luận đã bị các đảng cộng sản lạm dụng để lập ra một cơ chế xã hội toàn trị, nơi mà độc tài qua độc đảng nắm toàn bộ bộ máy tuyên truyền để đánh lận con đen về các sự thật của nhân sinh, các chân lý của nhân tính, các lẽ phải của nhân tâm, để chế tác ra các quái thai chống nhân lý và nhân tri: “dân chủ thì phải tập trung”; “dân làm chủ nhưng đảng lãnh đạo”; “đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý và đảng chỉ đạo”. Đây không phải là cấu trúc luận khoa học mà là kiến trúc luận lưu manh! Nơi mà duy vật hiểu theo nghĩa tồi tệ nhất để trở thành tội lỗi nhất, kiến trúc lưu manh với lý luận côn đồ xuất đầu lộ diện để truy diệt nhân lý; cùng lúc truy sát duy tâm theo nghĩa nhân tâm nhất.
– Văn hoá luận (culturalisme), nơi mà văn hoá là kiến thức của cộng đồng, tri thức của tập thể, tại đây văn hoá luận phân tích và giải thích văn hóa như một hệ thống trật tự để tổ chức các phong tục tập quán, thói quen… như văn hóa đã tổ chức các kinh nghiệm, các kiến thức, các vốn liếng của tổ tiên để làm nên đạo lý cho cộng đồng và ý thức cho tập thể. Văn hoá luận tôn trọng để tôn vinh truyền thống, từ thờ cúng tới lễ hội… nơi mà các giá trị văn hoá chính là các giá trị tâm linh với ý nghĩa của đạo lý, với nội dung của luân lý. Chính văn hóa xếp đặt các hành vi của cá nhân được lập lại theo truyền thống, nó xếp đặt luôn các lề thói về cưới hỏi, kinh tế, trao đổi… Văn hoá luận còn đi xa hơn nữa khi nó tổ chức các sinh hoạt ưu tiên: ngôn ngữ trong truyền thông, tư tưởng trong xã hội, ý thức trong hành động, nên văn hoá vừa có mặt trong quản lý xã hội, vừa có mặt trong môi trường giáo dục của một cộng đồng; của một dân tộc. Chính văn hoá làm nên cho ý thức tập thể; văn hoá biết biến cái tối đa của kiến thức thành cái tối đa của ý thức, để tạo nên sự đồng cảm giữa các thành viên có chung một văn hóa. Khi các đảng cộng sản muốn cướp chính quyền, để sau đó áp đặt độc đảng qua độc trị, độc tài, độc quyền, độc tôn, thì các lãnh đạo cộng sản luôn tìm cách tấn công văn hóa, truy diệt truyền thống của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của một dân tộc, giúp dân tộc đó sống có bổn phận với giống nòi, và sống có trách nhiệm với đất nước. Mao đã giật dây dân tộc của hắn để làm Cách mạng văn hóa, chính là để hủy diệt văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tên tội đồ này đã thí mạng bao triệu nạn nhân trong cuộc thảm sát này, mà nó không hề là một cuộc cách mạng văn hóa, mà thực chất là hủy diệt truyền thống văn hóa. Rồi ĐCSVN nối gót theo ĐCSTQ để làm Cải Cách Ruộng Đất, vừa để thảm sát hàng trăm ngàn sinh linh bị vu cáo rồi vu khống là các thành phần địa chủ. Đây không hề là một cải cách mà là cuộc truy cùng diệt tận quan hệ làng nước trong quan hệ láng giềng cao đẹp trong văn hóa truyền thống Việt: bán bà con xa, mua láng giềng gần.
– Chủ động luận (dynamisme), đề nghị nghiên cứu thật sâu vào tính đa nguyên tạo ra đa tài, đa lực, đa trí, đa hiệu, đa năng, không những làm nền cho dân chủ, mà cũng là nội lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc để hiểu tính chủ động thường trực trước mọi đổi thay xã hội, biến hóa thời cuộc, tiến bộ khoa học kỹ thuật… Chủ động luận đề nghị xem cạnh tranh trong thương mại, kinh tế là hằng số của nhân sinh, có cạnh tranh mới có tiến bộ; cùng lúc chấp nhận tranh đua trong khoa học kỹ thuật như là một thực thể thường nhật của nhân sinh, vì có tranh đua mới có hiện đại hóa. Chủ động luận luôn đặt ra các câu hỏi để đánh giá lại các quyết đoán được rà soát lại bởi quá trình đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động. Đây chính là sung lực của đa nguyên, làm nên quá trình đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng bằng phản biện để phản luận, làm hùng lực cho dân chủ đưa xã hội thăng tiến, đưa dân tộc thăng hoa. Chính hai quá trình này: đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động trong đa nguyên để khơi dậy đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, tạo sinh lực cho đối thoại-đối trọng-đối lực-đối kháng, từ đó lấy cái đúng thuyết phục được cái sai, vì cái đa luôn khôn ngoan hơn cái độc, và khi dân chủ cô lập được độc tài, khi đa nguyên vô hiệu hóa được độc đảng, thì cái độc hại của độc trị sẽ không vận dụng được cái ác để gây ra tội ác. Không nên trông chờ hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) chấp nhận chia lợi, chia quyền, cụ thể là chung-chia với hệ đa (đa nguyên, đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu). Vì chung để chia, thì hệ độc sẽ mất hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân) của nó!
– Chỉnh lý luận (rationalisme), bắt đầu bằng đề nghị tìm hiểu để giải thích tính duy lý khi con người đặt quyền lợi của mình trên quyền lợi của người khác, cụ thể là cá nhân chỉ thấy tư lợi của mình, nếu duy lý như vậy thì tư lợi của người này có thể gây nên thiệt hại cho người kia, thì đây chỉ là loại ích kỷ thô thiển. Nên từ đây, chỉnh lý luận phân tích các thỏa thuận giữa các duy lý khác nhau, đang xung đột nhau để tìm ra tính hợp lý được tập thể, cộng đồng, xã hội công nhận, từ đó định nghĩa lại quyền lợi của cá nhân, vẫn giữ tư lợi nhưng phải biết là tư lợi không được gây hậu quả xấu tới tha nhân. Khi có được thỏa hiệp về quyền lợi cá nhân làm nên tư lợi cho mọi cá thể, thì tính toàn lý sẽ xuất hiện để bảo đảm tự do cá nhân được có mặt và được tăng tư lợi trong cuộc sống; mà không quên công bằng xã hội giữa các cá nhân, các tập thể, nơi mà công bằng luôn có chỗ dựa là công lý. Và, chính tự do cá nhân và công bằng xã hội cho phép bác ái ra đời trong đoàn kết và tương trợ, qua các cơ chế xã hội có mặt tự do cạnh tranh, nhưng cũng có mặt các hội đoàn từ thiện, các chủ thể thiện nguyện, các tổ chức nhân đạo… Nên phương trình tự do-công bằng-bác ái tưởng là mâu thuẫn nhau, nhưng thực sự hỗ trợ cho nhau trong quan hệ hỗ tương chung-chia để chung-sống. Khi duy lý đã được điều chế bởi quá trình chỉnh lý-hợp lý-toàn lý thì duy lý sẽ rộng mở và sẽ rời duy lợi vì tư lợi để nhập nội vào quy trình chung để chia và chia để chung với tha nhân, với đồng loại, trên nguyên tắc của cộng hòa vì công ích xã hội qua phương trình tự do-công bằng-bác ái của dân chủ. Đây là chuyện mà một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ làm được, vì tự do dẫn tới đa nguyên, công bằng dẫn tới dân chủ, và bác ái dẫn tới nhân quyền, một quá trình của nhân trí phục vụ nhân vị, nhân tri phục vụ nhân tính, nhân lý phục vụ nhân tâm. Một chế độ độc tài-toàn trị không bao giờ muốn có tự do-công bằng-bác ái để phải công nhận đa nguyên-dân chủ-nhân quyền. Vì vậy các chế độ độc đảng-toàn trị luôn luôn đi về hướng: bất nhân!
– Cá nhân luận (individualisme), không phải là cá nhân chủ nghĩa sẽ dẫn tới ích kỷ chủ nghĩa, mà cá nhân luận đưa ra định đề là mỗi cá nhân là một đơn vị tính toán của thống kê, là đối tượng của điều tra, khảo sát, nghiên cứu về một sắc tộc trong dân tộc học, về một xã hội trong xã hội học, về một đơn vị lao động trong kinh tế học… Nên cá nhân là căn bản của mọi phân tích, nguyên tắc của mọi giải thích, và Weber đã cho ra đời cá nhân phương pháp luận (individualisme méthodologique) để đi sâu vào các dữ kiện xã hội, trong đó có các nguyên tắc tổ chức của tập thể, của cộng đồng, và sâu hơn nữa là các giá trị luân lý được đại diện bởi chính các cá nhân, thay mặt cho thân tộc, thống tộc, dân tộc của mình. Cá nhân luận là nơi nhận diện các trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa cũng như trong quyết định trước khi hành động. Chính Tocqueville đã thấy được cá nhân luận là tiền đề của xã hội dân chủ, vì nó biết chống lại các thái độ độc tài, các hành vi độc đoán, các hành động độc tôn. Cách hành xử cả vú lấp miệng em không có chỗ đứng, ghế ngồi trong cá nhân luận, cho nên các chế độ độc đảng-toàn trị đứng ngồi không yên rồi mất ăn mất ngủ với cá nhân luận. Vì nó biết cổ súy tính đa nguyên của các cá nhân, vì nó biết cổ vũ tính sáng tạo qua sáng kiến trong phương pháp giải quyết của cá nhân luận để chống lại các quy luật độc trị được độc tài phổ biến qua tuyên truyền. Cá nhân luận còn đi xa hơn khi nó phân tích quá trình thành lập các phong trào xã hội, tới từ các công đoàn tôn vinh dân chủ, các nghiệp đoàn tôn trọng nhân quyền để tạo ra các so sánh lực lượng mới, làm tiền đề cho cải cách thực sự đưa dân tộc thăng hoa. Cá nhân luận định nghĩa cá nhân không chỉ là một cá thể mà là một chủ thể có sáng kiến để có sáng tạo làm nên lực đẩy, dàn phóng cho chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng tích cực. Cá nhân luận làm ra chủ thể có ý thức, không bao giờ vô cảm trước bổn phận với dân tộc, không bao giờ vô tâm trước trách nhiệm với đất nước. Cá nhân luận xây dựng chủ thể có lương tâm với với đồng bào, sống lương thiện với xã hội, luôn giữ lương tri với tiền đồ dân tộc. Và trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, các chủ thể chính thống lại là các tù nhân lương tâm, đang trong vòng lao lý, vì quả cảm đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ, họ đang bị hành hạ, đày đọa bởi bạo quyền. Chính các tù nhân lương tâm này đã và đang đại diện cho hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) cho Việt tộc! Cá nhân luận là một trong những gốc, rễ, cội, nguồn để thay, để tháo, để gỡ, để xóa độc đảng-toàn trị đang sâu dân mọt nước qua hệ tham (tham quan, tham ô, tham quyền, tham quan, tham tiền), đang bòn rút của cải dân tộc, đang tiêu hủy tài nguyên đất nước.
– Tri thức luận (cognitivisme), rời bỏ để dứt khoát với mọi phương pháp dựa trên siêu hình học (linh hồn, thiên đàng, địa ngục…) để lập lại quá trình xây dựng ý thức chỉ bằng kiến thức thí nghiệm được, tri thức kiểm chứng được. Tri thức luận thẳng thắn chấm dứt với mê tín, dị đoan, và đã chọn khoa học não bộ và khoa học thần kinh làm tiền đề và thượng nguồn để khám phá quá trình xây dựng tri thức của con người biết chế tác ra niềm tin dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có đạo đức của chân, thiện, mỹ, có luân lý của bổn phận và trách nhiệm của mọi cá thể muốn sống đúng và sống chung cùng một xã hội với tha nhân. Hai trường phái chính của não bộ học vừa đối lập nhau, vừa bổ sung cho nhau trong quá trình giải thích các sinh hoạt của não bộ: trường phái duy vật mang định đề chỉ có bộ óc là nơi quyết định tất cả mọi việc; và trường phái môi trường thì tạo định luận qua bối cảnh của môi trường xã hội sẽ tác động trực tiếp lên năng lực của não bộ, cụ thể là não bộ thay đổi và chuyển hóa theo môi trường. Trong nghiên cứu về tâm lý học tri thức thì Jame nhận định vai trò của bộ óc là để bảo đảm thăng bằng bền vững cho cá nhân; và Watson đã đi sâu thêm khi giải thích bộ óc mang sung lực tổ chức hoá mọi hành động của cá nhân. Trong các công trình về não bộ học thì Churchland đưa ra các phân tích về bộ óc là nơi có khả năng diễn luận kinh nghiệm của cuộc sống, từ đó biến thành ý thức để xây dựng ra các hành động cho tương lai, lý luận này được tiếp nối bởi các công trình của Edelman nhận định bộ óc như một hệ thống biết tự tổ chức, nơi mà ý thức làm tiền đề tạo dựng lên các cơ sở lý giải để phân loại và so sánh các sự kiện. Chính não bộ học thăng tiến liên tục với những khám phá mới về các khu vực sinh hoạt của não đã cũng cố vai trò giải luận của tri thức luận, hiện có chỗ đứng trung tâm trong hầu hết các chuyên ngành của KHXHNV. Trong tình hình của xã hội Việt Nam dưới bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền thì tri thức luận là nguồn nước ngầm sẽ trở thành sóng thần trong tương lai để giúp mọi công dân của Việt tộc thay đổi não trạng sau bao năm làm nạn nhân của bộ máy tuyên truyền ngu dân trong mê lộ của dối trá, gian manh, lừa đảo. Tri thức luận đủ nội lực để xóa đi nguồn máy độc tài nhưng bất tài trong việc bảo vệ đất nước, đủ sung lực để loại bỏ bộ máy độc trị nhưng không biết quản trị để đưa dân tộc vào tiến bộ và văn minh. Tri thức luận biết phối hợp với tất cả các nghành KHXHNV để giúp dân chủ trong đa nguyên lột mặt nạ bọn tổ chức học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cùng lúc lột trần quá trình mua điểm-bán bằng trong tà lộ của mua chức-bán quyền, để vạch mặt chỉ tên bọn sâu dân mọt nước đang lẩn lút như âm binh trong ma lộ của buôn dân-bán nước cho Tàu tặc. Vì tri thức luận biết quản lý sự thật-chân lý-lẽ phải bằng hệ thức, nơi mà kiến thức là sung lực của tri thức, ý thức là hùng lực của nhận thức.
Tại sao anh lại dùng ngữ pháp: Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu hoạn-Tàu họa?
Xin được trả lời: ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp là một tổng thể hoàn chính để định nghĩa một thực tế, từ đó lập nên định đề để định luận qua hệ luận: có lý luận để tìm ra đường đi nước bước, có lập luận biết xây dựng từ nền lên mái; có giải luận để hiểu đâu là hằng số, đâu là biến số của tội ác, để thấu luôn đâu làm hàm số, đâu là ẩn số của tội phạm; có diễn luận theo cấp bậc: đâu là lỗi, đâu là tội, bằng phương pháp luận của khoa học xã hội của thực địa (dân tộc học, sử học, nhân học…) và của khoa học nhân văn của văn bản (ngôn ngữ học, triết học, văn học…), nên định nghĩa dọn đường cho định đề, chọn chổ cho định luận:
– Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển, rồi còn bắn giết, sát hại ngư dân Việt trước một ĐCSVN nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tầu tặc. Từ ngày quy hàng ĐCSTQ qua mật ước Thành Đô, từ đó cho tới nay Tầu tặc đã nắm dao đằng chuôi để ĐCSVN phải đứng trước mũi dao để ngày ngày phải: hèn với giặc-ác với dân.
– Tàu nạn, đang hằng ngày đe dọa Việt tộc với ô nhiễm môi trường, nơi mà môi sinh bị truy diệt bởi chính các tập đoàn mang công nghiệp bẩn của Tàu sang đất Việt, từ các nhà máy luyện thép tới các nhà máy điện than, đang tạo ra các làng ung thư… tới cả Tây nguyên bị khai thác vô tội vạ, bầy nhầy nhiễm ô. Mà ta không được quên thực phẩm bẩn với hóa chất độc tới từ Tầu tạo ra ung thư cấp quốc gia mà các cơ quan y khoa quốc tế đã xếp Việt Nam là một quốc gia đang trong vòng tử nạn của ung thư hóa, một chuyện chưa bao giờ có tại Việt Nam, và không thể tưởng tượng được trong tư duy bình thường của các công dân các quốc gia văn minh.
– Tàu hoạn, không những thông đồng với bọn phản dân hại nước, mà Việt tộc gọi chúng là: nội xâm! Cả ngoại xâm Tàu hoạn và nội xâm (tham quyền vì tham tiền, tham quan để tham nhũng), đã và đang biến dân Việt thành lao nô, nô tỳ thấp kém nhất cho chúng sĩ nhục ngay trên đất Tàu, bị hành hạ như loại nô lệ giữa thế kỷ XXI này. Chưa hết, chúng còn tổ chức bắt cóc người Việt từ trẻ con tới phụ nữ để mổ mà cướp nội tạng của đồng bào ta, cái hoạn của Tầu là cái hèn của ĐCSVN làm nên cái nhục cho Việt tộc.
– Tàu họa, đúng là họa: họa mất nước, họa nô lệ, họa diệt vong… tất cả từ Tầu, dưới bóng đêm của âm binh buôn dân bán nước của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền lẩn lút trong gian nghiệp của điếm lộ. Bắt đầu là Tầu trúng thầu qua tham nhũng để tham quan vơ vét trước, sau đó chính dân tộc Việt lãnh mọi hậu nạn, với các công trình đội vốn, rồi dân Việt còng lưng để trả thuế, lẫn nợ công đã ngập đầu, ngập mặt. Một dân tộc nheo nhóc trong mê lộ, với một tập đoàn lãnh đạo mà thực chất là một tập đoàn tội phạm đã có nhà, có của, có thẻ xanh, có thẻ cư trú tại phương Tây.
Bạn của tôi ơi! Mô thức giải luận của tôi về Tàu nạn-Tàu tặc-Tàu hoạn-Tàu họa, lập ra để dẫn đến mô hình lập luận thế nào là Tàu tà nơi mà cái xấu, tồi, tục, dở của Tàu tà sẽ được thực hiện qua cái thâm, độc, ác, hiểm của Tàu tặc sẽ xóa, loại, diệt, hủy mọi đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của Việt tộc!
Tại sao lại dùng ngữ pháp đốn mạt nghiệp-mạt vận kiếp đối với các lãnh đạo của ĐCSVN?
Đây không chỉ là ngữ pháp, mà là mô thức giải luận cũng để tới được mô hình lập luận về đám bạo quyền lãnh đạo, về lũ tà quyền tham quan, về bọn ma quyền tham tiền, khi tôi lập nhân dạng qua xã hội học để nhận ra nhân diện của chúng qua tâm lý học, rồi phân tích nhân cách của họ qua chính trị học; với các chỉ báo sau đây:
- Họ tự kiêu dù họ biết họ tồi hơn thiên hạ.
- Họ tự mãn dù họ biết họ xấu hơn bá tánh.
- Họ tự phụ dù họ biết họ thấp hơn quốc tế.
- Họ tự đại dù họ biết họ dở hơn tha nhân.
- Họ tự kiêu nhưng họ không tự tin, vì họ không có nội công trong lý của trí.
- Họ tự mãn nhưng họ không tự chủ, vì họ không có bản lĩnh trong trí của tuệ.
- Họ tự phụ nhưng họ không tự trọng, vì họ không có tầm vóc trong tuệ của giác.
- Họ tự đại nhưng họ đầy tự ty, vì họ không có hùng lực trong đạo của lý.
- Họ dùng độc đảng của họ để họ ăn hiếp dân tộc họ, nhưng họ lại cúi đầu trước bạo quyền Tàu tặc.
- Họ dùng độc tài của họ để họ hiếp đáp dân tộc họ, nhưng họ lại cong lưng trước tà quyền Tàu hoạn.
- Họ dùng độc quyền của họ để họ trấn áp dân tộc họ nhưng họ lại quỳ gối trước ma quyền Tàu họa.
Nên mô thức giải luận của mô hình lập luận đốn mạt nghiệp-mạt vận kiếp rất hợp với “chân dung quyền lực” của họ!
Chúc bạn thoát được tặc, tránh được nạn, vượt được hoạn, lách được họa.
Kính thư.
PS: Nếu bạn muốn: thoát, tránh, vượt, lách được tặc, nạn, hoạn, họa thì phải thấy ra các ý đồ tà ác của chúng, và đừng để quá trễ, quá muộn nhé, để rồi sau đó ngồi một mình mà than thân trách phận.
GS Lê Hữu Khóa
***
Lê Hữu Khóa
Tác giả là Giáo sư Đại học Lille; Giám đốc Anthropol-Asie; Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á; Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc; Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris; Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á; Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.