Lương tri và nhân tri
Tù nhân lương tâm, mang hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) đi tù, vào tù vì lương tâm của mình, như vậy bạo quyền của độc đảng toàn trị, tà quyền của cơ chế độc trị, ma quyền của công an trị như đang bỏ tù cả dân tộc, cả đồng bào khi chúng đẩy các tù nhân lương tâm vào vòng lao lý. Tù nhân lương tâm là tuyến đầu trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền vì nhân phẩm. Tù nhân lương tâm là những đứa con tin yêu của Việt tộc bằng lương tri của mình: “Sống lâu mới biết lòng người có nhân!”.
Tù nhân lương tâm nhắc cho dân tộc, cho đồng bào là nhân quyền luôn có chỗ dựa trên hệ nhân nơi mà nhân phẩm là gốc của nhân tâm, nhân từ, có rễ là nhân bản, nhân văn, có cội là nhân tính, nhân lý, làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, tất cả cùng bồi đắp cho nhân vị. Tù nhân lương tâm chấp nhận: tù đày, tra tấn, nhục hình, truy sát… để đưa cả hệ nhân này vào nhân đạo, để đi trọn con đường từ nhân ái tới tận nhân nghĩa, tù nhân lương tâm là những đứa con kiên cường của Việt tộc bằng quyết tâm của mình: “Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn!”.
Tù nhân lương tâm: tù vì chính kiến?
Tù nhân lương tâm, theo định nghĩa quốc tế, là những công dân một sớm một chiều thành tù nhân, vì họ có chính kiến hoặc chống lại, hoặc khác biệt với ý thức hệ, với chế độ đang cầm quyền không tôn trọng tự do ngôn luận. Như vậy, ý thức hệ độc tôn để độc tài, chế độ độc trị để độc quyền, mà trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc đảng để độc quyết chính là nguyên nhân cùng lúc là thủ phạm sinh ra, tạo ra, chế ra hiện tượng: tù nhân lương tâm!
Hiện tượng: tù nhân lương tâm không có trong các quốc gia tôn trọng văn minh của dân chủ, quý trọng văn hiến của nhân quyền, như vậy hiện tượng này chỉ có trong hiện tình của một quốc gia như Việt Nam hiện nay là độc đảng-toàn trị, trong đó hoàn toàn không có tam quyền phân lập, để có một nền tư pháp biết lấy công pháp dựa trên công lý để giải luận rõ ràng về sự công bằng giữa các chính kiến.
Từ đây, mọi lý luận đều dẫn đến một lập luận là: bạo quyền độc đảng-toàn trị phải bỏ tù, mà không qua đối thoại để đối luận, thì bạo quyền này được nuôi dưỡng bởi: tà kiến! Chính tà kiến tới từ tà quyền được giáo dưỡng bởi bạo quyền độc đảng-toàn trị đã vạch ra tà lộ cho thượng tầng lãnh đạo bằng ngục lộ để dựng lên nhà tù, rồi đẩy các công dân yêu nước thương nòi, quý dân chủ, trọng nhân quyền vào vòng lao lý. Khi lý luận, lập luận, giải luận xong thì cùng nhau tới một diễn luận là hiện tượng tù nhân lương tâm, có nguyên nhân của đấu tranh giữa hai thế lực:
- Chính kiến đúng chống tà kiến sai đang cầm quyền bằng cái ác!
- Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái độc!
- Chính kiến đẹp chống tà kiến xấu đang cầm quyền bằng cái dở!
- Chính kiến tốt chống tà kiến tục đang cầm quyền bằng cái bẩn!
- Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái hiểm!
Hiện tượng: tù nhân lương tâm luôn là cuộc đấu trí giữa:
- Lương tâm chống lại bạo quyền lãnh đạo.
- Lương thiện chống lại tà quyền tham quan.
- Lương tri chống lại ma quyền tham quyền.
Chính hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) làm nên định nghĩa, có định đề làm nền cho định luận của hiện tượng tù nhân lương tâm, tại đây tù nhân vì chính kiến của chính nghĩa đã làm đẹp cụm từ lương tâm, làm thăng hoa nhân cách của tù nhân, vì tù nhân chính là chủ thể của lương tri.
Tù nhân lương tâm: tù vì ý thức?
Tù nhân lương tâm, qua tên gọi quốc tế là prisonnier de conscience, mà conscience là ý thức, nếu bị một bạo quyền lãnh đạo mang tà lực của âm binh bỏ tù mình bởi mình có ý thức, thì đây là định nghĩa, định đề, định luận khác, cũng thật đẹp. Vì trong ngữ văn cũng như ngữ pháp cả hai ngữ vựng: lương tâm và ý thức đều đẹp vì cả hai đại diện cho đạo lý đúng, hay, tốt, lành để đối diện rồi trực diện trước cái phản đạo lý xấu, tồi, tục, dở đến từ cái phản luân lý thâm, độc, ác, hiểm trong cuộc sống.
Định nghĩa thế nào là tù nhân lương tâm cần cả hai gốc, rễ, cội, nguồn của hai hệ:
- Hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri).
- Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức).
Tại đây, kiến thức xuất hiện để xóa vô tri, tri thức có mặt để loại vô minh, trí thức hiện diện để bứng vô nghĩa, ý thức ra đời để gạt đi vô cảm, nhận thức đứng lên để vùi vô tâm, làm nên tỉnh thức từ lương tâm tới lương tri. Tại đây, chọn lựa của các đứa con tin yêu của Việt tộc, vừa cõng hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), vừa bồng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) tạo nên một sung lực cho quần chúng, cho xã hội, sung lực đó chính là hùng lực của sự phản tỉnh.
Sự phản tỉnh ngay khi tỉnh giấc là đồng bào, dân tộc đã qua ác mộng của tà lộ được tà quyền vẽ ra qua ngu dân bằng tuyền truyền, qua áp chế, khủng bố, trù dập của một chế độ lấy công an trị để gieo cái sợ, dùng cái sợ để truy hủy sung lực của tỉnh thức, để truy diệt hùng lực của sự phản tỉnh.
Hãy lý luận tiếp để lập luận thêm là:
- Bạo quyền lãnh đạo không sợ sự thật, nó chỉ sợ sự thức tỉnh.
- Tà quyền tham quan không sợ chân lý, nó chỉ sợ sự phản tỉnh.
- Ma quyền tham quyền, không sợ lẽ phải, nó chỉ sợ sự tỉnh giấc.
Chính các tù nhân lương tâm đại diện cho cả ba:
- sự thức tỉnh trước bất công.
- sự phản tỉnh trước bất luân.
- sự tỉnh giấc trước bất nhân.
Tù nhân lương tâm: tù vì công lý?
Trần Thị Nga là tù nhân lương tâm, mà chúng ta nhận ra quá trình của lương thiện vừa là vốn của nhân phẩm, vừa là động cơ cho đấu tranh vì công bằng và dân chủ, để mở rộng chân trời của lương tâm biết dấn thân vì đời, vì người, với lương tri của nhân bản để có nhân vị xứng đáng cho nhân vị trong một chế độ độc đảng toàn trị. Chính chị là nạn nhân của chính sách xuất khẩu lao động, một sách lược khốn kiếp của lãnh đạo độc tài đã và đang vùi lấp nhân phẩm Việt, khi con dân Việt một sớm một chiều trở thành: lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.
Tồi tệ như bọn lãnh đạo là tay chân của chúng là bọn làm môi giới, tha hồ vơ vét tiền hối lộ của các con dân Việt thất nghiệp đã túng quẫn tới đường cùng, lại phải chi tiền cho chúng mới được đi ra nước ngoài làm loại lao động rẻ tới tận cùng của mạt vận. Bọn lãnh đạo thì đầu cơ chính sách, bọn môi giới thì đầu nậu buôn người, chúng chính là loại ký sinh trùng bòn rút sinh lực đồng bào, một loại ký sinh đang nắm quyền, cầm quyền, và bám quyền để vơ vét cho tới ngày chúng bị mạt vận trong ma trận của chính chúng dựng lên. Và cũng chính chúng đã ép bản án 9 năm tù giam, 5 năm tù treo, trên cuộc đời của chị.
Hãy nhận diện các hằng số trong phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri của Trần Thị Nga từ nhà đấu tranh cho công bằng xã hội tới chủ thể đấu tranh toàn diện trên mọi bất công xã hội: đấu tranh để bảo vệ các nạn nhân trong chính sách xuất khẩu lao động mà thực chất là thực hiện một chế độ nô lệ mới mà chính chị cũng là nạn nhân, mà thân thể hiện đang mang thương tật trên đoạn đường làm nô lệ này. Khi trở về đất Việt, Trần Thị Nga tiếp tục đấu tranh chống chính sách xuất khẩu lao nô, cùng lúc ủng hộ các phòng trào bảo vệ môi trường, trực diện với bạo quyền để đấu tranh chống ô nhiễm do Formosa gây ra. Chị còn đứng cạnh, đứng kề cùng dân oan chống bọn tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, cả hai chúng chỉ biết tham tiền đang chủ trì ma sách nheo nhóc hóa Việt tộc.
Phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri đấu tranh cho công bằng xã hội, ở bất cứ nơi nào có bất công, sau cùng Trần Thị Nga đã tới đấu tranh vì tự do, vì nhân quyền và dĩ nhiên vì dân chủ. Hãy nhận diện các chỉ báo mà Trần Thị Nga phải trả giá trước bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tư pháp, ma quyền công an: chị đã bị hành hung và bọn công an đã đánh chị gẫy chân, với hình ảnh của hơn 20 công an truy sát, đánh đập một phụ nữ thân cô, thế cô. Chúng cô lập, khủng bố, ngăn chặn chị đi lại, không cho chị đưa các con về quê thăm ông bà, cản ngăn chị không cho chị đưa các con đi ăn ngoài phố. Còn bao nhiêu điều nữa từ thối nát của tư pháp tới thối tha của công an, khi chúng không cho chồng con của chị tới thăm chị trong nhà tù. Và, chị đã trả lời với chúng là: “Tôi chỉ làm những điều đúng luật pháp, đúng đạo đức…”. Đây là định nghĩa của lương tâm, định đề của lương thiện, định luận của lương tri.
Tù nhân lương tâm: tù vì đa lý?
Tù nhân lương tâm Hoàng Đức Bình, có mặt trên hai trận tuyến đấu tranh cho xã hội, một tại công đoàn, hai trong phong trào bảo vệ môi trường sau đại nạn ô nhiễm miền Trung do Formosa gây ra, anh bị bắt và phải nhận một bản án vô nhân là 14 năm tù, với hai hành động bảo vệ tự do cho công đoàn, bảo vệ môi trường cho đồng bào. Đấu tranh trên hai mặt trận của xã hội dân sự, thì đối với bạo quyền lãnh đạo đã là đa lý, vì tà quyền độc đảng rất sợ các chủ thể đa lý, vì họ đa tài, đa năng, đa hiệu và nhất là đa trí trong công cuộc đấu tranh vì công bằng và tự do.
Hàng chục người đến phiên tòa của anh, đều bị chặn lại và hành hung, và trước bản án quá nặng của bạo quyền độc đảng dùng tà quyền tư pháp để buộc tội anh 14 năm tù, những ai được vào phiên tòa hôm đó đều nhận ra nhân cách liêm chính, phong cách bình tĩnh, tư cách nghiêm túc của anh. Luật sư của anh Hoàng Đức Bình cũng ngỡ ngàng trước sự thiếu vắng chứng cớ, chứng từ, chứng nhân… để tòa án bất nhân này có thể buộc tội anh tới 14 năm tù. Những ai được vào tham dự phiên tòa đều nực cười với bản án mà nguyên nhân là: “lợi dụng tự do dân chủ để chống lại người thi hành công vụ”. Trước nhân cách rất liêm sỉ đường đường chính chính của Hoàng Đức Bình, thì cáo trạng này của tòa án đã lột mặt nạ bọn bạo quyền lãnh đạo chỉ đáng là bọn xảo ngôn trong điếm lộ, đã lột trần bọn tà quyền tư pháp chỉ là đám gian nghiệp trong điếm phận.
Trước và sau bản án tù 14 năm, phải nhắc tới bà mẹ của anh cương nghị trong quyết đoán: con của bà là Hoàng Đức Bình là người tốt, làm việc đúng với lương tâm, và biết rõ là còn nhiều hoạn nạn sẽ tới với thể lực, tâm lực, trí lực của đứa con, bà dặn con là bà hiểu rõ sự can đảm cùng công cuộc dấn thân của con, bà biết con bà hy sinh vì đồng bào, đồng loại. Tiếng bà nói rõ, giọng bà vang vang để sự thật, chân lý, lẽ phải, cùng nhau song hành luôn có mặt trong nguồn sống của con của bà. Bà còn dặn theo con là bà sẽ rất hiểu nếu trong cuộc dấn thân vì người, vì đời mà con bà phải hy sinh, thì bà là người hơn ai hết hiểu rõ tình thương của con bà đối với dân tộc, quê hương.
Trong lao tù tại nhà tù An Điền tỉnh Quảng Ngãi, với điều kiện lao lý khắc nghiệt, thể lực của anh đã suy kiệt với các chứng bịnh mới xuất hiện, mà cai tù không hề tạo điều kiện cho anh chữa trị, trong đó có chứng bị mờ mắt vì đã bị nhốt trong phòng tối quá lâu ngày. Hành hạ tù nhân lương tâm bằng những bản án dài, hành sát tù nhân lương tâm bằng điều kiện lao lý của loại địa ngục trần gian, nơi mà nhân quyền là chướng ngại vật luân lý mà bọn bạo quyền lãnh đạo xảo ngôn trong điếm lộ, cùng bọn tà quyền tư pháp gian nghiệp trong điếm phận không sao vượt qua được, chúng ta hãy chọn một mô thức giải luận của KHXHNV để phân tích hành động của bọn này: đốn mạt vận trong mạt vận kiếp!
Tù nhân lương tâm: tù vì đa lương?
Trong cái ác của bạo quyền, trong cái thâm của tà quyền, trong cái độc của ma quyền là sự vô tâm của chúng đã “sản xuất” ra lương tri, khi chúng đưa những người lương thiện vào vòng lao lý, đó là trường hợp của tài xế Nguyễn Nam Phong. Khi anh dũng cảm đưa một linh mục đi khiếu kiện bọn gây ô nhiễm tồi tệ Formosa luôn được bạo quyền lãnh đạo buôn dân bán nước bao che, và anh đã bị bắt, bị lãnh án tù bằng một phiên tòa bất lương, vô nhân. Trong bán án kết tội anh, thì bọn quan tòa bất nhân của tòa án vô luân đã kết tội anh là đã: “chống đối những người đang thi hành công vụ!”. Vu khống để vu cáo rồi vu họa lên kẻ lương thiện, đó là hành vi giờ đã thành phản xạ của tà quyền, mà sự thật là anh chỉ làm công việc của nghề nghiệp và lương tâm là lái xe đưa linh mục Nguyễn Đình Thục đi kiện bọn sát diệt môi trường Formosa đã giết môi sinh của các tỉnh miền Trung, làm bao triệu đồng bào vào vòng họa lộ trước biển chết.
Những ngày tháng trong tù là những ngày mà anh là nạn nhân của những cuộc tra tấn tàn bạo, dã man của những tên công an cai ngục, ngày ngày chúng đóng vai đồ tể để tra tấn bằng đòn thù trong ý đồ hành xác tại nhà tù Nghi Kim, tỉnh Nghệ An. Bọn cai ngục đồ tể này đã đánh đập anh bị chấn thương rồi nội thương nặng máu luôn chảy từ lỗ tai của anh cho tới nay. Những đòn thù của tra tấn, luôn song hành bằng hành vi tồi tệ của âm binh âm giới nơi chỉ có cái ác xuất hiện ở dạng điếm nhục nhất. Cụ thể là khi bọn công an tra tấn anh thì chúng đưa ảnh của Hồ Chí Minh rồi bắt anh chào, và sau đó là những trận đòn chỉ để gây nội thương lâu dài, với các lời nhục mạ vô liêm sỉ, với những lời phỉ báng bất nhân nhất.
Những ngày tháng trong tù đày là những ngày tháng bị tra tấn bằng đòn thù mà cũng là những ngày tháng bị lao động vất vả như một cực hình khác song lứa cùng tra tấn. Bạo quyền không hề có tư duy để lý luận là khi tù đày song lứa cùng tra tấn rồi song đôi cùng lao động như nhục hình thì chính tại đây khi cái ác cặp kè cùng cái độc và cái hiểm, thì nó càng làm anh dấn bước thêm mạnh để cùng song hành cùng đồng bào Nghệ Tĩnh của anh.
Trong lao tù, anh phải sống với những thử thách mới dồn dập tới: vợ của anh là chị Nguyễn Thúy Hạnh thông báo là con gái của anh là cháu Nguyễn Hải Giang bị ung thư ở giai đoạn trầm trọng… Cháu Nguyễn Hải Giang đã không được cứu chữa đúng lúc… Cái kết xấu đã tới với gia đình anh… Cái kết này đánh thức rất nhiều lương tâm trong quần chúng, trong xã hội, trong và ngoài nước mà bạo quyền lãnh đạo, tà quyền công an, ma quyền cai ngục không sao đoán hết được hậu quả một ngày kia sẽ tới với chúng!
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.