Đường Sống Của Loài Người: Sử Quan Nhân Đạo (P2)

Thời kỳ nhân đạo tăng tiến

Xã hội người thành hình thông qua xã hội tự tính. Thị tộc, bộ lạc rồi các dân tộc xuất hiện. Lý Đông A gọi đây là thời kỳ Duy Dân. Nhân loại vừa tăng tiến về lượng, có mặt trên toàn thế giới, vừa cả về chất, với các mô hình phát triển xã hội đa dạng và tiến bộ, từ kinh tế đến chính trị, văn hóa và sinh hoạt xã hội. Các cuộc cách mạng công nghiệp đã giúp xã hội phát triển vượt bậc; khoa học kỹ thuật tiên tiến từ máy móc đến điện tử và vi điện tử ngày nay.

Tuy vậy, đời sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, rất nhiều khi trắc trở gập ghềnh trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa nhân tính và vật tính. Loài người lao vào các cuộc chiến tranh và tranh cãi triền miên để tìm lời giải cho câu hỏi: thế nào là đường sống người đích thực, thế nào là cuộc sống chung an vui hạnh phúc? Hạnh phúc phải chăng là nước này xâm chiếm nước kia, là ngai vàng vua chúa cha truyền con nối? Phải chăng đó là quan hệ giữa bạch chủ với hắc nô mà số phận ‘hắc nô’ đã được quyền lực siêu hình định đoạt, không thể thay đổi? Hoặc của giai cấp công nhân nhân danh Chủ Nghĩa Cộng Sản tiêu diệt các giai cấp khác? Hạnh phúc phải chăng là một thiểu số giàu có tìm cách khống chế và lũng đoạn tất cả, tạo ra chiến tranh để buôn bán vũ khí, hoặc của bầu cử tự do nhưng kèm theo tiền bạc tài phiệt đổ vào truyền thông nhằm dẫn dắt dư luận, hay đổ vào quảng cáo đánh bóng ứng viên phe mình, triệt hạ uy tín phe kia?

Hạnh phúc không cần được định đoạt và ban phát bởi các thế lực thần quyền hay thế quyền, mà phải do con người chủ động tạo ra qua các chương trình kinh tế – xã hội(16).

Công cuộc tìm kiếm lời giải cho một xã hội ổn định và phát triển đã sản sinh ra hàng loạt các chủ thuyết chính trị xã hội (từ thần tắc sang lý tắc): Duy Danh, Duy Lý, Duy Sinh, Hiện Thực, Kinh Nghiệm, Hoài Nghi, Lý Tưởng, Thực Dụng, Hiện Sinh… Trong đó, hai chủ thuyết có ảnh hưởng sâu rộng tới toàn thể nhân loại thời cận đại là Duy Tâm và Duy Vật. Những người nhân danh chủ thuyết chống đối nhau đã gây bao tang thương đổ vỡ cho nhân loại.

Ngoài các chủ thuyết chính trị xã hội, những kỹ thuật dưỡng sinh để sống vui sống khoẻ, sống trường thọ, cân bằng tâm sinh lý cũng phát triển phong phú trong thời kỳ nhân đạo tăng tiến hiện nay.

Thời kỳ nhân đạo ổn định

Trong các thời kỳ từ trước tới nay (nhân đạo sơ khai, nhân đạo thành lập và nhân đạotăng tiến) loài người chỉ nhận ra và vận dụng từng phạm trù riêng lẻ (duy nhiên, duy nhân, duy dân hay ngắn gọn là nhiên, nhân, dân). Giai đoạn sắp tới, nhân loại phải tổng hợp cả ba phạm trù mới đem lại cuộc sống ổn định và hạnh phúc.

Lịch sử nhân loại đầy những lỗi lầm đáng tiếc, nhưng công cuộc tìm kiếm đường sống đặc thù của loài người vẫn không ngưng nghỉ. Có thể nói qua nhiều đợt chém giết lẫn nhau, hai lần chiến tranh thế giới đẫm máu và cuộc đối đầu tư bản – cộng sản gây bao tang thương kinh hoàng, con người mới nhận ra rằng tuy dân tộc là nhiều nhưng nhân loại là một – đa chủng tộc nhưng duy nhất một loài người. Dù màu da trắng đen hay vàng đỏ, ai cũng cần được sống xứng đáng là người, hưởng chung ánh sáng nhật nguyệt và phải được bình đẳng, đối xử như nhau. Do tính nhất nguyên tuyệt đối của phạm trù nhân, nhân loại mới sáng tạo ra bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được hầu hết các quốc gia công nhận. Quyền con người thì không phân biệt màu da, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp…Cũng do tính nhất nguyên tuyệt đối đó mà các dân tộc chung tay tổ chức các hội nghị quốc tế, đặt ra luật lệ, cơ chế để giảm thiểu sự sát hại lẫn nhau (Liên Hiệp Quốc, Hội Đồng Bảo An, Toà Án Quốc Tế v.v…).

Muốn giải quyết những vấn đề của nhân loại và để loài người sống an vui hạnh phúc bên nhau, con người phải chủ động (nhân chủ), dựa trên gốc người (nhân bản), theo cách thức, tiêu chuẩn của loài người (nhân tính), không thể nghiêng về thiên hay địa. Nghiêng về thiên thì người bị đẩy ra ngoài vì thần là chủ; nghiêng về địa thì người bị chà đạp vì vật chất là chủ. Chỉ khi nhân loại giác ngộ, đặt người làm chủ, nối trời và đất, cuộc sống mới cân bằng.

Lịch sử nhân loại vận động theo hình trôn ốc(17), khởi từ một điểm dưới đáy, đi thành vòng tròn, rộng dần và cao dần lên. Vận động sau ở những vòng trên cao có tính đồng dạng với những vận động trước, nhưng phát triển cả về chất lẫn lượng, với những nút tết hay nút biến. Nút tết là để tạo sức bật, đưa đời sống người vươn lên cao hơn, hướng thượng không bị thụt lại, tiến gần chân thiện mỹ hơn.

Từ lúc ăn sống tới khi tìm ra lửa, biết ăn chín là một nút tết. Từ săn bắt, hái lượm đến trồng tỉa, chăn nuôi là một nút tết. Đực cái chuyển sang nam nữ rồi vợ chồng là một nút tết. Thời đại đồ đá chuyển sang đồ đồng là nút tết khác. Bỏ phong kiến để thực thi dân chủ lại là nút tết mới. Cứ thế, nhân loại khởi đi từ sống, còn, đến nối, tiến, rồi hoá không dứt.

Chúng ta nương vào và khai thác thiên nhiên để cuộc sống ngày càng thuận tiện tốt đẹp hơn. Nhưng nếu khai thác quá độ nhằm phục vụ nhu cầu kinh tế mà không biết bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống thì chính loài người sẽ bị tận diệt.

Trong mấy thập niên qua, Trung Quốc tìm mọi cách phát triển kinh tế bất chấp thiên nhiên bị huỷ hoại ra sao. Tại các thành phố kỹ nghệ lớn, người dân phải sống trong làn khói bụi mịt mù, nguồn nước và thực phẩm ô nhiễm, nguy cơ bị ung thư rất cao. Tây phương phát triển trước nên thức tỉnh sớm, hô hào bảo vệ thiên nhiên trong vài thập niên gần đây. Nhưng khi thức tỉnh thì tầng ozone ngăn cản bức xạ mặt trời đã lủng, dễ gây ung thư da, đục thuỷ tinh thể mắt, đồng thời còn làm giảm sản lượng lương thực và biến đổi hệ sinh thái biển. Bên cạnh đó, nền kinh tế tư bản khuyến khích tiêu xài, hưởng thụ vật chất tối đa. Khi người ta càng thụ hưởng, các nhà tư bản lại càng thu thêm nhiều lợi nhuận. Tác giả Harari nhận xét, nếu nhân loại sống theo tiêu chuẩn của những gia đình khá giả người Mỹ (giới trung lưu nói chung), phải cần tới vài trái đất mới cung ứng nổi. Tình trạng xả thải gây ấm nóng toàn cầu và hiệu ứng nhà kính không giảm từ năm 2000 tới 2010; ngược lại, gia tăng đều đặn mỗi năm 2.2%, trong khi chỉ tăng 1.3% / năm từ 1970 tới 2000. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia gây ô nhiễm môi trường trầm trọng nhất, năm 1997 đã từ chối phê chuẩn Hiệp Định Kyoto nhằm giảm thiểu xả thải, và vào tháng 6 năm 2017 đã rút khỏi Hiệp Định Paris về khí hậu vì chính phủ e ngại những quy định về sinh thái sẽ cản trở kinh tế phát triển. Người ta không dám hy sinh hưởng thụ vật chất để đổi lấy môi trường sống trong lành. Điều này sẽ mang đến thảm hoạ cho nhân loại và có thể tiêu diệt luôn cả nền văn minh loài người, theo nhận định của nhà sử học Harari(18).

Trong thời kỳ nhân đạo ổn định sắp tới đây, nhân loại cần giác ngộ nhân chủ, đặt người vào đúng vị trí, là trung tâm giữa thiên và địa, tổng hợp duy tâm và duy vật, khai thác nhưng cũng phải biết bảo vệ tự nhiên để tạo một nền văn minh tự nhiên hoà, tránh không để bị tự nhiên hoá.

Tự nhiên hoá về sắc tính là tình dục bừa bãi, không dựa trên tình yêu trong sáng, chân thành; là tình dục ngoài hôn nhân đưa đến gia đình tan vỡ. Tự nhiên hoà là trung trinh vợ chồng song phương để bảo vệ bản vị cơ bản của xã hội, giữ cho các thế hệ tiếp nối sinh ra trong khoẻ mạnh, vui tươi.

Tự nhiên hoá về nhu yếu tính là lòng tham, là lợi nhuận tối đa bất kể quyền con người, bất kể môi trường bị huỷ hoại hoặc người khác bị thiệt hại ra sao. Tự nhiên hoà là bình đẳng cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc tạo dựng và hưởng dụng của cải.

Tự nhiên hoá về xã hội tính và tự vệ tính là mạnh được yếu thua, là tranh chấp bá chủ, chiến tranh hủy diệt nhau. Tự nhiên hoà là tinh thần bình đẳng, chia sẻ trách nhiệm, tôn trọng và sống hoà hài bên nhau.

Trinh, bình, hoà phải là tiêu chuẩn cho các yếu tố thành lập xã hội (sắc tính, nhu yếu tính, tự vệ và xã hội tính – Lý tiên sinh gọi chung là xã hội tự tính) để thiên tính trở thành nhân tính. Vậy một trong những mục tiêu quan trọng của chính trị là điều lý nhân tính (ba chuẩn đích trinh, bình, hoà) để người ngày càng người hơn và càng hoà hợp với tự nhiên hơn.

Lịch sử như thế mới là lịch sử biết nghĩ ngợi của nhân đạo–hay đường sống người – bởi người, cho người và vì người.

Tạ Dzu

Tháng 8 năm 2019 (Việt Lịch 4898)

——————–

(16) Yuval N. Harari (2016). Homo Deus. Sđd, tr 240-243.

(17) Joane Riou and John Archie Pollock, The Tree, the Spiral and the Web of Life: A Visual Exploration of Biological Evolution for Public Murals, accessed 15 April 2018, ttps://www.mitpressjournals.org/doi/pdf/10.1162/LEON_a_00321

(18) Harari (2016). Sđd, tr 23, 249-251.

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s