Sự Thật và Tự Do (P4)

Tự do qua hành động theo quá trình: hiểu biết-chọn lựa-quyết định để hành động vì tự do, tự do được sống, tự do được tồn tại trong cuộc sống, và vận dụng cuộc đời, xã hội, cộng đồng, tập thể, gia đình… để ngày ngày thực hiện tự do cao hơn, rộng hơn, sâu hơn, xa hơn. Tự do là lãnh thổ của nhân tính, luôn muốn nới rộng biên giới, cùng lúc nó muốn phá luôn các ngục tù ý thức hệ, các mô hình bảo thủ, các mô thức lỗi thời, để nhân tri nêu cao nhân loại, để nhân trí đào sâu nhân tình.

Tự do có ý thức, không hề là loại tự do thụ động, “ba phải”, “nửa vời”, “lúc thế này, khi thế khác”. Chính ý thức của tự do sản sinh ra ý định thực hiện dự phóng, ý muốn tổ chức chương trình, để hình thành ý đồ phải thành công qua chiến lược lâu dài, chiến thuật ngắn hạn, kể cả sách lược được dựng lên qua mưu lược, tất cả tạo nên ý lực cho hệ quyết (quyết định, quyết đoán, quyết tâm). Tự do có ý thức, có dự phóng, có chương trình qua phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực là điều kiện, là tiền đề, là thượng lưu của tự do muốn thay đời đổi kiếp của Việt tộc. Vì có ý thức nên chúng ta thấy cái bất công của xã hội do lãnh đạo bất tài dựa độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với sự xuất hiện của dân đen, dân oan. Chính phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực này sẽ giúp Việt tộc đón nhận nhân tri để có nhân trí mà chống đối, mà đấu tranh, mà phấn đấu cho tương lai của đất nước!

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện “con vua thì được làm vua”, với bi hài kịch “thái tử đảng” sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại “con quan thì được làm quan”, gây một thảm kịch cho cả dân tộc: “cả họ làm quan” qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng… với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh. Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện “con vua thì được làm vua, con sãi chùa thì quét lá đa” là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con “sãi chùa” mà cũng là minh sư Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt.

Tự do phải biết tự xây, khi đã tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, thâu nhận luân lý, để xây lên liêm chính, để dựng lên liêm sỉ, bảo vệ nhân phẩm chống lại cường quyền, độc tài, tham nhũng. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh. Tự do tự xây, dựa trên ngữ pháp “xây để dựng tự do”, vì không ai ban bố tự do cho ta, mà tự do có được qua ý thức không chấp nhận bất công, qua nhận thức không dung túng độc tài, qua tâm thức không nhượng bộ bạo quyền.

Tự do phải biết tự sinh, có mặt ngay trong hiện tại để trong hiện sinh trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó. Cùng lúc tự do là dàn nhún, dàn phóng gửi phương án của sự sống đúng đến trúng tương lai tốt đẹp cho nhân sinh. Hơn thế nữa, tự do biết gửi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là: tự do có mặt để giúp con người thăng hoa theo hướng chân-thiện-mỹ. Tự do tự sinh để gửi thông điệp, tín hiệu là tự do biết nổi giận vì đã chịu quá nhiều bức xúc tới từ bất tín, bất tài, bất trung, đã tạo ra bất công, sinh ra bất nhân, đang lũng đoạn luân lý Việt qua tham nhũng của tham quan. Chính tự do nổi giận chỉ là giòng lũ của thượng nguồn, sẽ tạo nên giòng thác của nổi loạn tại hạ lưu để chống độc tài, độc quyền, độc trị được chống lưng bởi độc đảng, để hình thành hợp lưu của bao giòng lũ, giòng thác tạo nên: Nổi dậy!

Tự do của năng động tính, đây là nội công riêng của tự do, vừa biết phòng ngự trước các cái xấu, tồi, tục, dở, vừa biết phản công chống lại các cái thâm, độc, ác, hiểm. Một thông minh khác của tự do là vừa biết khẳng định nhân phẩm của mình, vừa biết vượt thoát các lo âu, sợ hãi tới từ đe dọa, tới từ bạo quyền; cho nên tự do sống vì quá trình tự thoát để tự thắng. Tự do để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do: tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó, sự sáng tạo của nó.

Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọt nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia.

Tự do của tự chủ, biết nuôi nhân đức trong một không gian đức của chung sống trong công bằngbác ái trong đó tự do biết: nội lực của luân lý có ý thức về trách nhiệm và bổn phận, sung lực của đạo lý có ý thức về chuyện hay, đẹp, tốt, lành; hùng lực của đạo đức: ý thức về nhân phẩm để giữ nhân tính. Tự do trong một không gian đức của phương trình thấy-hiểu-thấu-nhận: tự do cùng tự chủ của phải hiểu cái tốt để phải làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, đồng loại. Tự do cùng tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận cái luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận); tự do cùng tự chủ phải tiếp thâu cái để đón tiếp cái thức (kiến thức, tri thức, ý thức).

Tự do vì công lý của công bằng, tự do cùng tự chủ đề nghị cái lý phải đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, cái đức phải tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, cái luật phải minh, trong nghĩa công minh cho toàn xã hội. Tự do cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được lâu dài bằng công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận tự do để xóa bất công, để trừ bạo động, để loại độc tài. Tự do cùng tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn…. Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những công lý mới đúng hơn, trúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm, trong đó trách nhiệm lãnh đạo phải liêm chính vì nó rộng hơn, nặng hơn trách nhiệm của công dân. Tự do không tự có để tự tồn, tự do có được trong tính tất yếu phải có câu trả lời, qua hành động thích hợp với luân lý của công bằng, với đạo lý của sự tôn trọng lẫn nhau.

Tự do của quá trình từ lý luận, nơi mà tư duy từ lập luận tới hành động vì công lý, dùng lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý. Tự do có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm, có lý trí của tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm. Tự do biết tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác. Tự do biết quyền tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, làm nguồn gốc của khổ đau, là nguyên nhân của nghèo đói.

Tự do của quyền tự bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc đảng, là gốc, rễ, cội nguồn của bất tín, bất tài, bất lương. Tự do có quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa năng của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng của nhân quyền và dân chủ. Tự do biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như chính bảo quản để cuộc sống, chống ô nhiễm môi trường và chống ngay trên thượng nguồn các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ.

Tự do là trách nhiệm của ý thức, tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay, luôn mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng này qua bạo lực và qua tham nhũng. Tự do có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.

Tự do của hành tác, tự do bên trong qua lý luận của tư duy, tự do thể hiện hành động ra bên ngoài, tự do bảo vệ tha nhân, như chính bảo vệ nhân tính của mình. Và khi tự do bị hiểu sai, rồi lạc hướng, khi tự do biến thành thảm họa cho mình và cho người khác, thì tự do phải luôn trở về với ba định hướng, dưới dạng ba câu hỏi: Tự do muốn gì? Tự do làm gì? Tự do về chuyện gì, trong xã hội nào, trong bối cảnh nào? Từ đây, tự do luôn có ba thực chất để thể hiện mình: Chủ thể, mong cầu và hành động. Khi cả ba vế này được minh bạch thì tự do phải: Vượt thực tế, thực tại, thực cảnh; vượt trở lực, khó khăn, thử thách; vượt độc tài, bạo quyền, tham nhũng.

Tự do nội chất của sự sống, nơi mà con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo, cũng chính con người phải vì nhân phẩm trước bạo quyền, độc tài, tham nhũng phải bảo vệ tự do của mình như bảo vệ con ngươi của mình để nhìn cho ra nhân tính. Tự do là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do trong tự tin là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới tự thái độ biếng lời của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện.

Tự do đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục…. Tự do trong không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

Tự do chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng được kiểm chứng qua các quá trình sau đây, nơi mà mỗi chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn phân tích và giải thích được: Tự do biết hét lên: Không đúng! Không chấp nhận được! Để chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng… để đi tới tìm cái đúng, tìm cái chấp nhận được qua công bằng của công lý; triết học luân lý và chính trị học gọi là lẽ phải của tự do. Tự do nổi lên trong nổi dậy giữa xã hội, cộng đồng, dân tộc khi nhân phẩm bị xúc phạm, tự do này đi từ nhân lý tới nhân trí; tri thức luận và xã hội học chính trị đặt tên nó là: Nhân tính của tự do. Tự do vượt khoảng cách, đã gây ra ngăn cách giữa người với người, dùng tự do để lập lại cầu nối, tạo ra phong trào, tái lập lại quan hệ xã hội để tìm sự chia sẻ, sự đồng cảm, từ đó chế tác ra đoàn kết và tương trợ giữa các nạn nhân của bạo quyền; tâm lý học tri thức và sử học chính trị nêu tên nó là: Lực bảo vệ quan hệ của nhân loại.

Tự do gạn đục khơi trong, loại bỏ bạo động có thể hủy diệt quan hệ xã hội, từ đó tạo nên một trật tự mới có đạo lý cạnh lý trí, có công lý cùng công bằng để bạo vệ sự trường tồn của tự do, mà triết học phân tích và xã hội học giáo dục tặng nó tên: Trí tuệ của nhân lý. Tự do đúng đưa công lý đúng với công bằng đúng tới nơi để bảo vệ công dân trước bạo quyền, đưa pháp lý đúng tới pháp luật đúng, biết bảo vệ lẽ phải để bảo vệ nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng, mà luật học cùng giáo dục học gọi nó là: Kiến thức của tự do. Tự do đúng đưa vào thảo luận để tìm ra cách giải quyết có đạo lý trước các khổ nạn của nhân sinh, chính đây là phẩm chất của đối thoại, chống phân biết đối xử, chống chuyện loại trừ tha nhân bằng chủ quan của định kiến, và xã hội học đạo lý cùng chính trị đàm phán trao nó tên: Dân chủ của truyền thông.

Tự do của quả cảm đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Tự do có ngay trong não bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vỡ bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnh của lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, mà không cần phải là nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do của quyền công dân, muốn xây dựng một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù ra xã hội bên ngoài. Tự do hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do trong đấu tranh có thành công và có thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoanh tay mà thẳng lưng, không quỳ gồi mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mãnh lực để thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân tính!

Chân dung chủ thể Việt:

Sự thật mãi mãi-tự do mãi mãi-chủ thể mãi mãi

Cúi sâu xuống bóng đêm quật lên sự thật

Vì mấy lần chân lý đã quỵ chân

Nằm sát đất nén hơi thở tự do vào ngực lửa

Vì bao bận công lý buông nhân dạng!

Xiết chặt tay ôm đầy nguồn nước mắt

Vì vạn lần chủ thể đã biệt tăm!

Lê Hữu Khóa

(13/12/2019)

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie, Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc, Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s