Nhân Tình Nhân Thế (P6)

Có Việt là có Nhân, còn Việt là còn Nhân
Những cái hay, đẹp, tốt, lành thì ai ai cũng đi tìm chúng trong cuộc sống, nhưng nó từ đâu tới, nó bắt đầu bằng nguồn nước tình cảm luân lý, băng đèo, vượt thác bằng ý thức luân lý, để nhập dòng vào hạ nguồn kinh nghiệm luân lý. Từ đó tình cảm luân lý- ý thức luân lý- kinh nghiệm luân lý, thành một: tâm-cảnh nhất như, một khối nhất thể, từ đây thương nước, yêu nòi vừa là tình cảm, vừa là lý trí; vừa là lập luận của dân tộc, vừa là sức thông minh của nhân dân. Nhân trí dân tộc cũng là ý thức công dân, muốn làm công dân liêm chính, vừa phải thức sâu, thức suốt để nhân sinh quan thương đồng bào trợ duyên cho thế giới quan thương đồng loại. Biết làm người sống, nhưng cũng phải biết làm người thức, lấy đồng cảm chống vô cảm, sống với thức làm ra nhạy, nhạy cảm và nhạy tâm, không phải chỉ để dễ cảm, dễ xúc, mà để đào sâu cảm, nạo rộng xúc, để làm cao lòng thương dân, tình yêu nước gạt ra được cái ích kỷ, không những để giữ tiền đồ cho tổ tiên, mà còn giữ luôn đất sống cho các thế hệ con cháu mai sau. Trong nhân học của Dumont, ông nói rõ được loại tình cảm luân lý này: “Lorsque foi et sentiment envahissent le domaine de la raison, lorsque l’histoire acquiert une forme et l’avenir de l’humanité s’éclaire d’espoir, on croit assister à une réhabilitation de la vie dans le monde…”. Khi niềm tin và tình cảm tràn vào lĩnh vực của cái lý, khi lịch sử có mang theo nhân dạng, thì tương lai của nhân sinh sáng lên hy vọng, cho ta tin là nhân sinh được tái tạo giữa nhân thế.
Chia sẻ với đồng bào mình các nỗi niềm giáo lý Việt tộc để làm gì vậy? Để tra phận nước, để vấn nạn dân! Tra-vấn rồi thì phải truy tầm nghiêm cẩn: gốc, rễ, cội nguồn của các nguyên nhân có thể gây ra mất nước, diệt vong trước Tầu họa hiện nay. Câu chuyện nỗi niềm giáo lý Việt tộc là nhận kiếp làm người Việt trước bao thử thách, mà trước nhất là thử thách của lòng yêu nước, như tôn trọng tình thương đồng bào, như trân trọng các chân trời phải dấn thân trong hành động, triết gia Levinas có công thức giúp ta đào sâu quan hệ giữa người và người, biết giữ lòng như biết giữ tâm: “l’humain ne s’offre qu’un à une relation qui n’est pas pouvoir”, người có nhân tính là kẻ biết hiến dâng một quan hệ làm người không qua quyền lực. Bọn buôn quyền, bán chức hiện nay phải tâm niệm, phải thiền định câu này, vì một công dân yêu nước nhận ba chuyển biến trong nhân sinh của mình: chuyển biến qua luân lý trong quá trình học hỏi về nhân cách giáo lý Việt tộc qua sự nghiệp dựng nước và giữ nước của tổ tiên; chuyển biến qua biến cố khi tổ quốc lâm nguy vì ngoại xâm, vì nội xâm (tham nhũng, tham ô), chuyển biến trong biến loạn nhận tranh đấu để giữ nhân phẩm, làm nên tư cách công dân, làm ra phong cách yêu nước, tạo ra nhân cách thương dân. Kinh nghiệm yêu nước làm ra ý thức công dân, làm nên cá tính bất khuất của một dân tộc. Công dân khi đối diện với dân tộc phải học được kinh nghiệm làm người yêu nước ngay trong quan hệ với tổ tiên, với thống tộc, với lịch sử, với văn hóa, để có cá tính khi yêu nước, thương nòi; khi đối đầu với thử thách ngoại xâm. Nhất là không để các biến cố bề ngoài: lớn hiếp nhỏ, mạnh đè yếu, giàu diệt nghèo nuốt đứng bản sắc dân tộc làm ra bản lĩnh yêu nước của mình, đây là một trong những định nghĩa về chủ thể yêu nước trước vận nước lâm nguy. Tư tưởng độc lập dân tộc của chủ thể yêu nước, đủ sức dẹp cái tôi nhỏ để nhận cái ta lớn của dân tộc, trong đó tự do của tôi thấp hơn tự do của cái ta. Cái tương quan mật thiết giữa ý thức yêu nước và ý thức dân tộc, định hình chủ quyền của một dân tộc; ý thức công dân là nền, cột, trụ, mái cho ý thức luân lý, chính ý thức luân lý này làm nên ý thức lý luận yêu nước và lập luận thương nòi. Ý thức giáo lý Việt tộc được chế tác từ tình cảm luân lý của chúng ta, tình cảm này không quan hệ dính dáng gì với các tâm lý: lo âu, sợ hãi, buồn rầu, sung sướng… nó là loại tình cảm dựa trên nguyên tắc biết-làm-dân để biết-làm-người, và phải-làm-người-thương-đồng-bào mình để làm-người-thương-đồng-loại, một cách đúng nghĩa nhất, tức là đúng đạo lý và luân lý nhất, mà tên gọi gãy gọn của nó là: nhân đạo.
Tình cảm luân lý kết tinh và hình thành ý thức luân lý yêu nước sẽ chi phối từ đầu tới cuối: các chọn lựa, các quyết định, các hành động, các phán xét của chúng ta trên nguyên tắc của nhân phẩm, không tôn trọng nó thì sẽ sinh ra bất bình đẳng rồi bất công, tức là thất nhân rồi vô nhân. Tình cảm dân tộc làm tiền đề ý thức dân tộc, nhưng chính tình cảm dân tộc này lại bắt đầu bằng cảm xúc dân tộc, giúp ta thấy rõ là xâm lăng, cướp nước láng giềng là chuyện không thể chấp nhận được; bạo động, bạo hành, bằng bạo lực công an đánh đập các người yêu nước hiện nay biểu tình chống ngoại xâm, chống hủy diệt môi trường là không thể chấp nhận được! Từ đó thì cảm xúc dân tộc đã thành lý luận dân tộc, mở cửa cho tình cảm dân tộc để trở thành giá trị dân tộc, hoàn chỉnh qua thử thách để thành lập luận yêu nước vừa tích cực, vừa chủ động, giúp mọi cá nhân có hành vi vì nhân tính, có hành động vì nhân phẩm. Nỗi niềm giáo lý Việt tộc giúp thấy rõ ràng chiều sâu của con người Việt trong vận nước nguy nan, đồng bào Việt trong hoạn nạn, thấy sâu xa việc bảo vệ nhân cách Việt, bảo trọng nhân phẩm Việt của ta, trong chiều rộng vô hạn của các quan hệ công dân-dân tộc-tổ tiên-tổ quốc đầy gian truân, luôn bắt con người Việt phải nhìn xa trông rộng trong cách gắn bó giữa Nhân và Việt.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này