Giá trị của lý luận luân lý
Ngày chủ nhật 18, tháng 7, năm 2016, dân chúng yêu nước, chống Tầu cướp đảo biển của ta dặn dò nhau: «mềm mỏng ôn hòa nhưng cương quyết», «chuẩn bị nhiều khẩu hiệu trong người đề phòng trường hợp bị cướp», «tuyệt đối đúng giờ, không đi sớm để tránh bị bắt nguội, bị xé lẻ»…. Đi biểu tình chống ngoại xâm, để bảo vệ đất nước mà phải chuẩn bị nghiêm cẩn như vậy trước bộ máy bạo quyền, sẵn sàng bạo hành, dùng bạo lực để đàn áp dân của công an hiện nay. Chỉ cần các vị lãnh đạo của ĐCSVN còn một chút lương tri, một tấc lương tâm thôi cũng thấy bao nỗi niềm dân tộc trong các lời dặn dò đầy quyết tâm yêu nước này. Cách thể hiện các tình cảm luân lý của mỗi công dân yêu nước thì thường được kể qua các biến cố đã và đang xảy đến cho đất nước đó; các biến cố này thường nằm ngoài mọi ước lệ hình thức của xã hội. Tình cảm luân lý yêu nước được thể hiện qua các lý luận luân lý thương nòi, chính lý luận luân lý này sẽ làm nền cho các nguyên tắc giáo lý dân tộc và dẫn chứng cho mọi phán đoán luân lý của dân tộc sau đó. Cái khác nhau giữa luân lý (la morale) và đạo lý (l’éthique); ở chỗ đạo lý là ý nguyện của chủ thể xây dựng cuộc đời qua các chiều hướng hay, đẹp, tốt, lành của mỗi người trước nhân sinh, trong bối cảnh vàng thau lẫn lộn; còn luân lý là khuôn phép của phải, đúng, hợp, nhập trong quan hệ xã hội giữa con dân và đất nước trong quan hệ dân tộc. Như vậy, đạo lý của một công dân, khi được tập thể, cộng đồng, xã hội công nhận nó sẽ trở thành luân lý cho dân tộc. Nỗi niềm giáo lý Việt tộc giữ chỗ trung tâm cho Lý Thường Kiệt (Nước Nam của người Nam), nó giữ luôn chỗ huyết mạch cho Nguyễn Trãi (Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo). Tầu chiếm biển đảo của ta bằng xảo thuật của bạo lực, ĐCSVN bị dân phán cho nhãn hiệu: «hèn với giặc, ác với dân», như vậy bi kịch của ĐCSVN hiện nay là có «đồng thuận» với giặc Tầu qua hình ảnh: bạo-ác, lại không tìm được một đồng thuận nào với dân tộc là: cùng dân giữ nước; để biết làm theo lời khuyên của Trần Hưng Đạo trong giờ hấp hối, dặn dò Trần Anh Tông cách đánh Tầu, trừ Hán, nếu chúng đến xâm lược tổ quốc ta: «Cả nước một lòng… rễ sâu, cội chắc!». Muốn có nỗi niềm đạo lý Việt tộc phải có cảm nhận đạo lý dân tộc, đó chính là chất kết tinh của mọi tình cảm luân lý trong mỗi công dân yêu nước, trong đó đạo lý đưa ra các định hướng cho ta biết lối đi, nẻo về của những cái hay, đẹp, tốt, lành, cho dân tộc, cho đất nước. Tại đây xuất hiện ra một loại đạo lý khó mà các triết gia của đạo đức học gọi là siêu đạo lý (métaéthique) bắt chủ thể yêu nước phải nhận ra tính đặc thù của môi trường mới khi tổ quốc bị đe dọa, để có phán đoán đúng trước khi hành động, vì sao? Vì môi trường đạo lý không phải là môi trường quân sự, môi trường ngoại giao không phải là môi trường truyền thống. Nhưng chỉ có một nỗi niềm đạo lý cho cả Việt tộc, làm nên tình cảm luân lý Việt tộc là: lòng yêu nước! Rễ sâu, cội chắc cho mọi tầng lớp xã hội (quân, dân là một), cảm nhận thật thâm sâu rồi dặn dò nhau là phải bảo vệ cho bằng được tổ quốc (giặc đến nhà, đàn bà phải đánh), cẩn trọng trước mọi mưu đồ thâm, độc, ác, hiểm của ngoại xâm, có cách đối phó với bọn (cõng rắn cắn gà nhà), với các kẻ (mang voi dày mả tổ), mặt mũi chúng nó «giống» đồng bào ta, nhưng trong tâm địa chúng chỉ thờ Hán triều.
Khi giá trị của tình cảm luân lý dân tộc đang thử thách nhân cách mỗi công dân Việt, giữa cái vận nước tối hơn sáng, thì giá trị của luân lý bảo vệ tổ quốc luôn là cái chung ở trên cao các tư lợi cá nhân; cái chung ở trên cao phải được tôn vinh, và nó đi trên vai, trên lưng các cá nhân ích kỷ chỉ thấy tư lợi của mình (ai chết, mặc ai). Giá trị của luân lý bảo vệ tổ quốc này mở lối cho các định nghĩa về bổn phận, về trách nhiệm cho mỗi công dân, nó mang tính phổ quát, tính phổ biến trong giờ khắc đất nước lâm nguy. Nhưng các giá trị luân lý này không sơ cứng, luôn là hệ mở, vì mỗi cá nhân cảm nhận nó qua cách đóng góp của mình, qua tính hiệu quả trong chiến đấu; hãy bỏ thói nghĩ thui chột dễ dãi của tư duy, thí dụ như một lãnh đạo (ăn trên, ngồi trốc) thì «yêu nước hơn» dân đen, dân oan (biết quyết tử cho tổ quốc quyết sinh). Các giá trị luân lý yêu nước sẽ không giống nhau, nếu các chủ quyền của các cá nhân, của các thành phần xã hội không giống nhau. Nhưng ta biết là mỗi công dân yêu nước không chỉ bằng cái tự do tuyệt đối của riêng mình, mà còn tùy thuộc ở mức độ rất cao và rất sâu vào các công dân yêu nước khác; tính lệ thuộc lẫn nhau trong lúc cùng nhau bảo vệ giang sơn, làm nên một khung luân lý bảo vệ tổ quốc chung, biến bản năng tự do cá nhân ra thành mẫu số chung yêu nước, chung sức cùng nhau bảo vệ tổ quốc. Hãy luôn giữ công thức của Hưng Đạo Vương («Cả nước một lòng… rễ sâu, cội chắc!»); tránh mâu thuẫn rồi chia rẽ giữa các cá thể yêu nước trong các thành phần xã hội khác nhau. Nếu có nhân sinh quan riêng rẽ, thế giới quan cá biệt, vũ trụ quan đặc thù, tức là rất khác nhau giữa các công dân yêu nước, nhưng nếu biết tạm thời dẹp các khác biệt này để làm nên chuyện lớn, thì giáo lý dân tộc sẽ trở thành sức mạnh dân tộc, thì luân lý dân tộc sẽ trở thành thông minh dân tộc đó. Những kẻ lãnh đạo hiện nay muốn được xem là minh quân, minh chủ, minh chúa thì phải biết nhận ra hai loại giá trị: giá trị luân lý trong khuôn phép mô phạm quốc phòng (cứng) và giá trị luân lý trong vận hành xã hội (mềm), linh hoạt qua các biến cố, qua các giai đoạn chiến lược. Những kẻ lãnh đạo giỏi này phải có đủ thông minh, để luôn phối hợp hai loại giá trị này, không những để bảo vệ đất nước mà còn làm thăng hoa tính đa dạng đã sẵn có trong mỗi công dân cùng một dân tộc. Trong giáo lý dân tộc, giá trị của công dân chỉ là một phần của giá trị của tổ quốc; công dân thể hiện bổn phận qua nghĩa vụ quân sự, giá trị của tổ quốc đề cao lòng yêu nước quả cảm, biết can đảm trên chiến trường, nhận hy sinh ngoài trận mạc. Những kẻ lãnh đạo này phải nắm rõ một khúc mắc nữa là trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc: phán đoán về thực tế không phải phán đoán của giá trị; trong đó phán đoán về vận mệnh dân tộc là gốc rễ của mọi quyết định luân lý trong mọi sách lược. Những kẻ lãnh đạo vận mệnh dân tộc không sao thoát khỏi quy luật nhân quả từ quyết định qua hành động trong quan niệm chính (trị) nghiệp của mình, họ phải truy giải nó qua gốc rễ của nó là nhân, để lý giải nó qua cành ngọn của nó là quả, luật nhân quả này trùm phủ toàn bộ chính (trị) luận của họ trên các thời điểm khác nhau: hiện nghiệp bắt họ trả giá ngay trong hiện tại, hậu nghiệp gửi chuyện trả giá của họ cho tương lai, nghiệp vô hạn định không ai biết được bao giờ mới hết các hậu quả của các sai lầm trong trong quá khứ, nghiệp vô hiệu lực không ai đủ sức tháo gỡ nổi các tội lỗi đã thành nội kết trong chính (trị )nghiệp của họ. Chính (trị) luận phải biết tác động trong chính (trị) nhân để chế tác ra: chính (trị) thức để nắm trọn các tri thức về cái xã hội đương thời của dân tộc mình, đây là cái khác nhau giữa các cá nhân (an phận) và chính (trị) khách (quyết đoán) dùng tinh hoa của dân tộc mình để thay đổi vận nước mình, rồi làm thăng hoa dân tộc mình, để sáng tạo ra cái tương lai đẹp cho tổ quốc; làm cho hiện tại phải hay, đẹp, tốt, lành hơn cái quá khứ cũ. Những con đường mà Việt tộc phải qua trong những năm tháng tới, cũng là những ngã ba, ngã tư bắt lãnh đạo còn liêm sỉ, còn lương tâm phải chọn lựa, giữa đạo lý (cái được xem là tốt) và luân lý (cái bắt ta làm tốt); một bên là ý thức về cái tốt, một bên là bổn phận phải tốt. Đạo lý là tình cảm tốt sẽ hành động theo hướng tốt, còn luân lý là khuôn phép tốt bắt đi ta vào lối tốt. Hiện nay, có quá nhiều chuyện không tốt đang xảy ra trên đất nước Việt, trong đó cái bất lực, bất tài, bất tín, bất trung của nhiều lãnh đạo ĐCSVN hằng ngày sánh đôi cùng cái thấp, tồi, kém, dở trước các đối tác, trước các đối thủ. Tại sao phải để tới ba tháng để kết luận là chính Formosa là thủ phạm gây ô nhiễm nghiêm trọng tại miền Trung, và ai cũng biết là không bao giờ mới khôi phục được ngư trường tại đây, bọn tội phạm môi sinh này bày trò «đứng khóc và xin lỗi» nhưng chúng đang: «coi thường và cười trong bụng» khi chúng coi rẻ dân Việt, khinh chính quyền Việt Nam, khi chúng chỉ bồi thường 500 triệu USD. Cái bất tín, bất trung của các lãnh đạo ĐCSVN giờ đây lại kèm ráp thêm vào các bất lý, bất tri khi để một phát ngôn viên ra giọng kể lể: «giáo lý Việt nam đánh kẻ bỏ đi, không ai đánh người quay lại», một tuyên bố vừa vô duyên vì sai bối cảnh, vừa vô minh vì lầm thực trạng khi đàm phán các thiệt hại quá trầm trọng về môi sinh với bọn bất nhân diệt hại môi trường này, mà nhân dân bốn tỉnh miền Trung đang gánh chịu. Ai lo cho các ngư dân của các tỉnh này phải bỏ nghề, bỏ quê hương, bây giờ đang lang thang, thất tha thất thiểu hàng loạt làm «lao nô», từ Trung Quốc qua tới Lào? Nỗi niềm giáo lý Việt tộc cũng là câu hỏi chính đáng nhất: tại sao chính quyền không lo cho họ? Tại sao lãnh đạo Formosa không nhận các hậu quả về xã hội, gia đình, nghề nghiệp… cho các nạn nhân này như các công ty tại các nước phương Tây khi phải bồi thường về môi trường? Chúng nó gây cho dân ta một nạn nghiệp, chúng nó phải nhận đủ mọi hậu nạn, đó là quy luật công bằng của nhân sinh, các lãnh đạo của ĐCSVN phải biết lấy lại lương tri của mình để bảo vệ ngư dân và môi trường miền Trung, phải biết lấy lại lương tâm của mình để bảo vệ dân tộc và đất nước! Không có lương tri lại để mất lương tâm thì đừng nói chuyện giáo lý, đừng bàn chuyện đạo lý, nhất là đừng lãnh đạo nữa!
Đạo lý phải cứu nước là tiền đề cho mọi mục đích khác nhau về các hay, đẹp, tốt, lành cho tổ quốc, nó luôn đi cùng với đạo lý phải giữ nước làm ra luân lý của một dân tộc là nơi thẩm định các mô hình về nghĩa vụ, đã khuôn thành bổn phận, đã khung thành trách nhiệm, mà các lãnh đạo vận mệnh đất nước phải luôn nắm vững hai đầu mối. Đầu mối thứ nhất là kinh nghiệm đạo lý giữ nước của tổ tiên trong lịch sử; và đầu mối thứ nhì là đạo lý giáo dục các thế hệ tương lai phải có đạo lý phải tổ quốc, trong đó số phận (bây giờ và ở đây) của dân tộc quyết định mọi phán xét hai đạo lý kể trên: cứu nước và giữ nước. Khi tòa án quốc tế tuyên bố là Trung Quốc không có một chủ quyền lịch sử gì trên biển Đông, nên rút ra càng sớm, càng hay hai khu vực: Hoàng Sa và Trường Sa và không được làm ô nhiễm các môi trường tại đây, qua các việc xây dựng bừa bãi các căn cứ quân sự, thì thế giới muốn nói gì với Trung Quốc? Thế giới muốn nói bọn lãnh đạo Tầu chỉ là: bọn trộm, cắp, cướp, giật! Khi bị ra tòa và kết tội tức đã là bị lột mặt nạ, thì số phận lành của kẻ trộm là phải trở về con đường thiện. Còn muốn tiếp tục theo gian, thì chỉ trở thành kẻ cướp mà thôi, mà muốn cướp cho bằng được đất biển của hàng xóm, thì sớm muộn gì cũng thành kẻ sát nhân! Bọn trộm, cắp, cướp, giật này đã có hành vi kẻ trộm, hành động kẻ cướp, hành khí kẻ sát nhân bao nhiêu lần trong lịch sử Việt tộc, mỗi khi chúng rình rình xâm chiếm nước ta. Vậy mà chỉ hai ngày sau phán quyết của Tòa án quốc tế, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã gặp tên thủ tướng Tầu, và sau khi gặp thì không có một câu tuyên bố nào thật liêm sỉ về chủ quyền biển đảo Việt, không có một tuyên thệ nào có lương tâm về toàn vẹn lãnh thổ Việt. Vậy thì, Việt tộc đừng trông chờ gì về loại lãnh đạo này khi tiền đồ Việt tộc đang bị lâm nguy, và tài sản riêng của hắn đã nằm phần lớn tại Mỹ, nhưng cũng giáo lý Việt tộc cũng dạy ta rất rõ là: «khôn quá hóa dại», nếu tiền của của ông ta mà tới từ các nguồn bất chính. Đúng vậy, Thượng Nghị Viện Mỹ vừa quyết định cuối năm 2016: chặn các tài sản bất chính của các lãnh đạo tham ô, cấm chúng nhập cư vào lãnh thổ Mỹ, sẵn sàng trả lại cho các dân tộc là nạn nhân của bọn tham nhũng này. Đây là một nhân luật làm sáng ra luật nhân quả của nhân lý vì nhân tri.
Nỗi niềm giáo lý Việt tộc cũng là những mơ ước của một dân tộc về một đạo lý đúng có nhân sinh đúng (nghĩa) trong một nhân tình đúng (cách), cả hai được bảo vệ và tôn trọng bằng các cơ chế đúng (luật). Cái đúng nếu nó chưa làm ra được cái tốt, thì ít ra nó cũng làm ra được cái lành, được sống lành đã là chỗ dựa cho bao cái hòa, cái yên, cái vui rồi. Con đường của nỗi niềm giáo lý Việt tộc, có nội lực của tình thương nước, yêu nòi, nhất quyết không biến đất nước Việt thành địa ngục của dân đen và dân oan, mặc dù chúng ta biết hai thành phần xã hội này tăng rất nhanh trong xã hội hiện nay, vì họ là nạn nhân trực tiếp của quá trình cưỡng chế đất, của đàn áp bất nhân trong chế độ công an trị hiện nay. Nỗi niềm giáo lý Việt tộc cũng là ý lực của dân tộc muốn có được từ một đời sống tốt trong thực tại, mà một dân tộc yêu nước đủ sung lực để biến ý lực thành pháp lực, một cách làm tốt để hành động, không có từ đó hình thành một sức mạnh hạ nguồn trong đấu tranh: quốc lực, trực diện với cái gian, tà, lận, tráo của tham nhũng, tham ô trong chế độ hiện nay, sau đó quốc lực Việt sẽ tính toán sòng phẳng tới cái trộm, cắp, cướp, giật của Tầu tặc, từ đó thay đổi nghiệp lực của dân ta. Khi ý lực chuyển hóa thành pháp lực làm nên quốc lực, thì loài ký sinh trùng tham nhũng, tham ô sẽ được biết rõ là tuổi thọ của chúng là rất thấp, so với các công dân yêu nước có đạo lý rộng vì có giáo lý cao, có đạo đức mạnh vì có luân lý sâu.
Nhân Tình Nhân Thế (P3)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).