Nhân Quyền-Nhân Trí (P3)

Nhân trí, môi sinh của nhân quyền
Nhân quyền là hải đăng cho mọi đường lối chống độc tài, tìm văn minh, hỗ trợ cho dân trí làm sức bật của mọi quốc sách của một chính quyền, để có được lực lượng lãnh đạo thông minh, khôn ngoan trên con đường phát triển đất nước. Chính quyền thực sự được dân tộc bầu ra chắc chắn họ sẽ không có phản xạ đàn áp dân chúng họ bằng một chính quyền do một đảng, một nhóm đưa ra; chính quyền thực sự được dân tộc bầu ra có phản xạ bảo vệ dân hơn một chính quyền do một đảng, một nhóm đưa ra; đây là sự thật của nhân sử, chân lý của nhân sinh, kinh nghiệm của nhân lý. Nhân quyền khi trở thành đường lối, thì nó khẳng định được mọi cá nhân đều là chủ thể, độc lập trong tự do và tự chủ trong bình đẳng; chắc chắn các xung đột giữa các cá nhân sẽ có, và định chế sẽ có mặt, từ hành chính tới luật pháp, từ kinh tế tới giáo dục, để xử lý và giải quyết các mâu thuẫn về quyền lợi giữa các cá nhân này. Khi công nhận điều này, thì một chính sách thực sự dựa trên nhân quyền là một chương trình trực tiếp chống độc tài, chống độc đảng, chống độc tôn, đây là đường đi, lối về của chính trị vì nhân tâm nên bảo vệ nhân quyền, vì nhân đức nên bảo vệ nhân trí, tất cả sẽ cùng nhau bảo vệ nhân phẩm. Việt tộc không thể nào để việc lấy bạc tỷ để xây các tượng Hồ Chí Minh trong vài tỉnh hiện nay, qua đó các lãnh đạo từ trung ương tới địa phương mượn cớ để biển thủ, để bòn rút, để chấm mút… trong khi nợ công ngày càng ngập đầu mà chưa có cách giải quyết, trong khi các con em chúng ta trên nhiều vùng của đất nước thì học trong các trường ốc mà mái trường không biết bao giờ sẽ sụp trên đầu các em, bao giờ nước lũ sẽ cuốn trôi lớp của các em. Cả nước đều thấy giáo dục bị sa đọa một cách tồi tệ, cùng các điều kiện vật chất trường lớp xuống cấp một cách quá tệ hại, mà lớp học ở một số nơi còn thua chuồng thú, và càng đi lên cao trong khu vực đại học thì đầy dẫy chuyện: học giả, thi giả, bằng giả…. Các em học sinh, sinh viên thương yêu, nhân cách giáo lý Việt tộc dạy ta đoàn kết với nhau trong khi sa cơ: «sẩy cha, còn chú», «sẩy mẹ, bú vú dì»; trong toàn cầu hoá giáo dục hiện nay, các em sẽ có các hùng lực của các giáo khoa, giáo trình, giáo án của thế giới tới từ các chú, các dì có thể rất xa về địa lý, nhưng nhờ qua mạng thông tin toàn cầu hoá, mặc dầu họ không cùng thống tộc, không cùng họ hàng, không cùng văn hoá với Việt tộc, nhưng nhân lý của họ hay nên giáo lý của họ tốt, giáo dục của họ đẹp vì dân chủ nhân tính của họ lành, các em cứ tìm họ mà học, học cái hay, đẹp, tốt, lành, dù từ xa tới còn hơn cúi đầu «lãnh đủ» cái tồi, xấu, thấp, hèn của một chế độ vô trách nhiệm với các em!
Một chủ thể độc lập trong tự do và tự chủ trong bình đẳng, thì ta không nên nhìn các cá nhân chỉ qua hành động của họ, mà phải xem đây là môi sinh nhân trí của mỗi cá nhân, ngày càng rộng theo sự phát triển của kiến thức, của truyền thông, của khoa học kỹ thuật. Môi sinh nhân trí sinh ra môi sinh tự lập cá nhân; chuyện này rất rõ trong nhân cách giáo lý Việt tộc: tu thân để phòng thân, phòng thân vì biết thủ thân, thủ thân để lập thân, lập thân để tiến thân, đây là quyền làm cá nhân, quyền làm chủ thể, quyền làm người rất bình thường và chính đáng, nếu một lực lượng lãnh đạo không thực hiện được việc này cho mỗi cá nhân, thì họ chưa hiểu, chưa thấu được hệ vấn đề môi sinh của nhân quyền. Trong một môi trường xã hội có văn minh vì biết bảo vệ mọi cá thể, luôn luôn có hai thực thể đi đôi với nhau: thực thể thứ nhất là sự có mặt của một chính quyền liêm chính quản lý các định chế hiện hữu trong pháp lý để bảo vệ tất cả các thành quả của tự do và dân chủ đã gặt hái được, từ đầu phiếu tới ứng cử, từ giữ gìn tri thức tới bảo hiểm xã hội… cùng lúc có thực thể thứ hai mang nội chất của tự do và công bằng, luôn ở thế tiến công, từ đòi hỏi tới đấu tranh, từ sáng tạo tới chỉnh đốn các cơ chế, đòi hỏi nhân quyền qua quyền làm người của mỗi cá thể. Chính quyền không những phải lo cho các cá nhân già yếu, mà phải lo luôn cho các cá nhân tật nguyền, lo trọn vẹn cho trẻ em và không quên bảo vệ phụ nữ trước các hậu quả bạo hành của nam giới…. Các cuộc điều tra quốc tế so sánh về sức khoẻ cộng đồng các quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để lộ ra một nhận định bi ai về thể lực của người Việt, với chế độ dinh dưỡng kém, thể lực yếu, thân thể thấp, vắng bóng lạ thường trong tất cả các kỷ lục thể thao. Giống nòi Việt tộc đã, đang suy kiệt? Đây là trách nhiệm của một lực lượng lãnh đạo bất tài hoặc bất tâm, rút tài lực của nhân dân qua đường tham ô, tham nhũng, vô tình hoặc vô ý nạo rỗng thể lực Việt tộc, đây là một trong những hậu quả mất nhân quyền, thầm lặng, sâu kín nhưng quá trầm trọng cho mai hậu. Các số liệu về y tế, ra từ báo cáo từ các bệnh viện: 7 người/ 1 giường, khu vực nhi khoa thì 6 trẻ/ 1 giường, đi kèm theo các lời than vãn của các người có trách nhiệm trong y giới: bệnh nhân ngủ trong hành lang, ngủ dưới gầm giường, điều kiện vệ sinh và điều trị thiếu nhân tâm, thiếu nhân phẩm. Thiếu nhân tâm, thiếu nhân phẩm ra từ cái vô tâm của chính sách, tới từ cái vô nhân của lãnh đạo.
Trong một môi trường xã hội có văn minh biết lo cho dân, tất cả những ai ở thế yếu, kém, nhỏ, thấp đều có quyền đòi hỏi một chỗ đứng ngang hàng với các kẻ mạnh, giàu, cao, lớn trong xã hội, trước mắt là qua luật pháp, giáo dục và y tế. Tự cho phép mình thường xuyên đòi hỏi để luật bù trừ được tính toán lại, quyết định lại, tổ chức lại ngày một công bằng hơn, mà mục đích chính là để bảo vệ các cá thể yếm thế trong cộng đồng, các cá nhân thất thế trong tập thể. Nhưng không có một cá thể nào đứng ngoài cộng đồng, cũng như đứng trên tập thể, tự cho phép mình lấy của công làm của riêng, cá thể luôn nằm trong tổ chức của xã hội, quyền năng của cá thể cũng như quyền lực của lãnh đạo, luôn được định nghĩa, định chất, định lượng từ quan hệ trong xã hội, qua các sinh hoạt của xã hội. Đây không phải là chuyện sống quây quần theo đàn, sống tự tồn theo bầy, mà sinh sống theo một tổ chức phức hợp, có giáo dục đi đôi với đạo lý, có kinh tế đi đôi với văn hoá, chữa bệnh đi đôi với phòng bệnh…. Ở đây nhân tính làm nội lực cho nhân sinh, con người khi muốn sống chung với nhau, thì mọi kinh nghiệm du mục riêng rẽ vô tổ chức trước đó phải bị loại bỏ, giờ đây phải chấp nhận được quản lý bởi các định chế có đủ sức làm hai việc: bảo vệ sự bình đẳng về quyền lợi của mỗi cá thể, cùng lúc phải bảo đảm cả tài sản của mỗi cá thể đó, tài sản vật chất và tài sản sáng tạo. Khi định nghĩa về xã hội học, Durkheim khẳng định: cá nhân không những sinh ra trong xã hội, mà sinh ra từ xã hội, như vậy xã hội tính có chỗ trung tâm trong cá nhân tính; vấn đề của nhân quyền là bảo vệ cho bằng được cá nhân tính trước các bạo động của độc tài, trước các bạo hành của độc đảng, cùng lúc bảo vệ luôn xã hội tính của cá nhân, trước các thái độ vô chính phủ, trước các hành động vô trách nhiệm sinh ra từ bản năng ích kỷ của cá nhân. Chuyện Tố Hữu dùng công an riêng của mình, lấy danh nghĩa của ĐCSVN, chụp mũ tập thơ Về Kinh Bắc, rồi bắt và giam cầm tác giả tập thơ là thi sĩ Hoàng Cầm trong nhiều năm – khi mà ích kỷ khi đã nhập nội với ganh tỵ, thì tỵ hiềm sẽ keo sơn với tội ác – là một chuyện phản nhân quyền vô cùng đau đớn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam dưới quyền lực lãnh đạo thô bạo, phản nhân quyền. Cũng như trước đó ĐCSVN đã truy diệt phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, sau Cải Cách Ruộng Đất, một cách vô nhân đạo, không qua pháp lý vì không có nhân trí, không qua nhân lý vì không trân quý nhân quyền. Việt tộc nên luôn luôn cẩn trọng với một số thái độ thờ ơ, vô tâm đã có trong cuộc sống tập thể và cộng đồng hiện nay, cái tư duy «ai chết mặc ai» vừa phản xã hội tính, vừa phản cá nhân tính, không biết rằng nhân sinh luôn tuỳ thuộc vào nhân tính, mà nhân tính muốn trường tồn phải dựa vào nhân tâm, nhân đạo, nhân phẩm, nhân đức. Khi nghiên cứu các quan hệ xã hội giữa chính quyền và cá nhân, xã hội học nhận ra là mỗi lần sự tự chủ của cá nhân được củng cố, được phát triển thì có sự phân hoá trong tập thể, phải hiểu phân hoá ở đây theo nghĩa tích cực, tức là cơ chế của cộng đồng phải thích ứng, tuỳ nghi, nhu thuận để đủ sức quản lý các quyền tự chủ mới, các quyền tự do mới. Một chính quyền giỏi là một chính quyền làm được «chuyện nước đôi này»: không ngừng phát huy các quyền tự chủ mới, các quyền tự do mới cho cá nhân, cùng lúc linh động tổ chức các cơ chế, luôn theo kịp các thể hiện nhân quyền mới sinh ra từ các nhân trí mới. Chính quyền giỏi này hiểu được một chuyện cốt lõi trong tổ chức xã hội là mỗi lần cá nhân được tôn vinh lên, thì quyền năng của xã hội cũng rộng ra, từ văn hoá tới pháp luật, từ giáo dục tới nghệ thuật…. Vì muốn tăng quyền độc lập của cá nhân lên cao, thì cùng lúc phải đủ sức linh động quản lý xã hội sâu rộng ra. Cái bất công, cái bất bình đẳng của các xã hội có chính quyền độc tài, có chính phủ độc đảng là cái thô bạo chống lại tự chủ và tự do cá nhân, qua hành vi thô thiển hoá các tổ chức xã hội, dùng tuyên truyền để chống nhân quyền, dùng nhồi sọ để loại nhân trí. Gần đây, các thanh thiếu niên việt nam đã dùng internet qua hệ Youtube để nói lên hoài bão, ước mong, chí nguyện về tự do, dân chủ và nhân quyền của mình trước thế giới, trước nhân loại, trước toàn cầu hoá, đây là một cuộc cách mạng nhân lý rất thông minh, vì nó vừa cao, vừa sâu, vừa rộng, nó không những nói rõ được nhân cách giáo lý Việt tộc trong chuyện đừng «lấy vải thưa mà che mắt thánh» của một chế độ không tôn trọng nhân quyền, vì trong định nghĩa của nhân quyền thì: lương tâm và liêm sỉ là một, một tổng lực để tự bảo vệ mình, và cũng để bảo vệ đồng loại của mình, «thương người như thể thương thân». Hãy cùng nhau nhận định sâu hơn về dân chủ: dân chủ thực luôn sinh ra nhân quyền thực, (có thực mới vực được đạo, và thực không những là thực phẩm mà trước hết là sự thật) và khả năng của dân chủ là tôn trọng tính chủ động của cá nhân, từ học tới hành, từ làm ăn tới làm giàu, nhưng chính xã hội dân chủ đó sẽ hướng dẫn cá nhân bằng giá trị của đạo lý cao đẹp, của luân lý tốt lành, với các sinh hoạt tâm linh có nhân đạo, với các sinh hoạt văn hoá có nhân tâm, với các sinh hoạt nghệ thuật có nhân phẩm. Như vậy kẻ yếu sẽ không thành người bại; kể cả triệu phú, tỷ phú cũng được cứu vớt bằng kiến thức và ý thức, để không trở thành trọc phú. Mandeville nhận định «cái đức công» không sợ «cái lợi tư», vì nó đi trên vai, trên đầu cái tham lam, cái ích kỷ, nó mở đường cho mọi người thấy chân trời của nó, để từ đó thế giới quan của cá nhân được rộng ra, để vũ trụ quan của cá thể được lớn lên; để nhân sinh quan của chủ thể được cao hơn.
Đề nghị 3. Nhân trí là môi sinh của nhân quyền, phát huy nhân trí là phát huy nhân tính theo nghĩa toàn diện nhất, từ giáo dục tới y tế, từ văn hoá tới kinh tế… đặt tự chủ và tự do cá nhân làm trung tâm cùng lúc xây dựng một khung vừa rộng, một nền vừa vững về đạo lý cao đẹp, luân lý tốt lành, sinh hoạt tâm linh có nhân đạo, sinh hoạt văn hoá có nhân tâm, sinh hoạt nghệ thuật có nhân phẩm, và chính quyền phải nhận đầy đủ nhiệm vụ và trách nhiệm qua chính sách lãnh đạo, qua đường lối lãnh đạo của họ, được kiểm tra bằng một pháp quyền liêm chính.

Nhân Quyền-Nhân Trí (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này