Dân Chủ và Hiến Pháp (P2)

Phát triển kinh tế dựa vào khoa học kỹ thuật dẫn đến sự phồn thịnh của hai bờ đại dương, bỏ rơi các tiểu bang nông nghiệp trung tâm và Nam. Cùng với cơ chế lưỡng đảng phân biệt khuynh hướng Cộng Hòa bảo thủ đối (các tiểu bang nông nghiệp trung tâm và Nam) với Dân Chủ cấp tiến (các tiểu bang hai bờ đại dương). Cũng vì danh xưng Hợp Chủng Quốc của người di dân nên nạn kỳ thị tất phải xảy ra khi căn bản đã là chế độ nô lệ người Phi Châu, diệt chủng dân địa phương (Native American, da đỏ).
Tuy người da đen được giải phóng sau nội chiến 1861-1865 nhưng mãi đến 1964 mới có luật dân quyền (civil rights). Cuộc đấu tranh của người da đen ảnh hưởng đến cuộc chiến VN và chính trị lưỡng đảng khi lời hứa bảo vệ tự do chống cộng sản không thực hiện như cuộc chiến Hàn Quốc.
Xung đột lưỡng đảng ngấm ngầm khi lãnh đạo bắt đầu sử dụng thủ đoạn mờ ám để tranh cử (Watergate). Quyền lợi đảng được bao che dưới danh hiệu quyền lợi Mỹ đã bỏ các nước nhược tiểu cho cộng sản để lo nội bộ hỗn loạn vì xung đột dân quyền (nguồn gốc từ nạn kỳ thị). Khi chọn lãnh đạo bất tài thì ngân sách bị lạm dụng vì quyền lực được hiểu là có tiền, cho dù là tiền vay mượn. Để vui lòng dân thì hàng hóa phải nhiều và rẻ. Muốn nhiều và rẻ thì dời sản xuất sang các nước có nhân công rẻ. Các công ty muốn có lời nhiều, mậu dịch dễ dàng thì phải vận động (lobby) đại diện quốc hội do dân cử chỉ nghe dân và hứa hẹn trong mùa bầu cử. Sau khi đắc cử thì dân không còn là “chủ” nữa mà kẻ có đồng tiền là chủ.
Hiến pháp là bộ luật nền của chế độ, vì tổng quát nên có chỗ mơ hồ cần được giải thích bởi tòa án (Tối Cao Pháp Viện). Hiến Pháp là căn bản để mọi người (cá nhân) chấp nhận sống chung trong xã hội nhưng khi vào chi tiết thì có thể A và B không đồng ý. Do đó quốc hội sẽ làm luật để giải quyết.
Trong sinh hoạt dân chủ thì đa số quyết định, thiểu số có ý kiến. Nhưng tại Mỹ, chúng ta thấy thiểu số (Tea party) phá hoại tiến trình dân chủ (không tham dự bỏ phiếu các dự luật), xuyên tạc ý định của phe đa số…. Ngược lại phe đa số (populist) lại đòi hỏi quá đáng, nghịch lý. Khi không có sự thảo luận nghiêm chỉnh, nhượng bộ (compromise) để có đối lập thống nhất thì sinh hoạt dân chủ bế tắc. Cả thiểu số lẫn đa số đều sai vì cực đoan và người dân bị gạt ra ngoài tuy rằng có thể phản đối, biểu tình, kiến nghị… nhưng phải chờ mùa bầu cử mới có tiếng nói rồi mọi sự lại như cũ.
Nếu mỗi người dân hiểu dân chủ là dân có quyền. Quyền của dân phát sinh từ nhân quyền. Dưới chế độ dân chủ thì quyền của mỗi người dân qua bầu cử, được chọn người đại diện để trao quyền thi hành các công việc chung (quốc gia) và nếu không hoàn tất thì người sẽ thu hồi và chọn người khác phụ trách thì đó mới gọi là chính quyền. Dưới chế độ độc tài (hay cộng sản) thì quyền của dân bị tước đoạt bằng bạo lực hay lừa gạt. Do đó nhân quyền hay dân chủ của cộng sản trở nên vô nghĩa, từ ngữ chính quyền của cộng sản thực sự chỉ là ngụy quyền.
Về hiến pháp cũng vậy, hiến pháp của cộng sản không do dân, vì dân, bởi dân mà do cộng sản quốc tế quyết định. Đó là vì sao cộng sản quốc tế dồn hết sức võ trang cho đàn em giành quyền cai trị, bất chấp ý dân hay thiệt hại. Các điều khoản trong hiến pháp của cộng sản chỉ sao chép lại từ chế độ dân chủ để lừa dân qua từng thế hệ.
Như chúng ta đã thấy sau nhiều thế hệ sống dưới chế độ cộng sản, người dân (lớp trẻ) dựa vào hiến pháp để đòi hỏi thì bị đàn áp vì hiến pháp, luật lệ chỉ để trưng bày, không phải để áp dụng cho dân. Nếu tất cả người dân ý thức quyền của họ bị tước đoạt và đồng lòng đứng lên (như Đông Âu 1989 và Ukraine 2014) thì không có bộ công an nào có thể đàn áp toàn dân một khi người dân chấp nhận hy sinh để giành lại quyền làm người.
Hãy nhìn kỹ vì sao Tô Lâm (cũng như các chủ tịch đảng cộng sản) cầm quyền và dân Việt không thể đụng tới sợi tóc Tô Lâm: vì Tô Lâm chế ngự được nhân vật số 2 làm tay sai (dùng bạo lực, quyền lợi) rồi từ số 2, 3, 4, 5… cho đến 1001 (đám công an bên dưới) và bè đảng ngụy quyền thành hình.
Trong khi đó phía những người đấu tranh cho nhân quyền chưa đánh thức được người dân đáy tầng thức tỉnh về quyền của họ được quy định trong hiến pháp. Nếu nhân quyền và dân quyền không có (có mà không được thực hiện vì nhà nước cấm đoán) trong hiến pháp thì dân sẽ đòi hỏi thay hiến pháp vì hiến pháp do dân chọn lựa, không phải do đảng cộng sản đặt ra.
Sự thay đổi hiến pháp và chế độ chỉ xảy ra khi những kẻ (công an) cấp dưới bị loại khỏi vòng chiến (qua thuyết phục, chiêu hồi, cảnh tỉnh, quả báo). Từ dưới lên trên, khi đám tay sai, phục tùng từ từ bị tỉa dần cho tới khi chỉ còn trơ trọi lại một mình ông Tô Lâm thì tòa án nhân dân sẽ xét xử những kẻ đày đọa dân tộc dưới chiêu bài cộng sản.
Tiêu diệt cộng sản cũng như cộng sản đã phá hoại chế độ Cộng Hòa: từng bước một, từ dưới lên trên, lấy thôn quê bao vây thành thị. Công an cộng sản không dùng luật mà chỉ dùng bạo lực. Khi kẻ cam tâm theo cộng sản vì lợi biết số phận cuối cùng thì sẽ thức tỉnh, bỏ chạy và đó là dấu hiệu suy tàn của chế độ cộng sản. Đòi hỏi bãi bỏ điều 4 hiến pháp không thay đổi chế độ cộng sản khi công an trị còn đó. Hiến pháp chỉ là bề mặt, mặt nổi, chỉ là cớ để quy tụ dân đứng lên đòi hỏi nhân quyền, dân quyền và đối diện công an. Mất công an thì cộng sản sụp đổ. Cuộc cách mạng cho hiến pháp mới phải khởi đi từ đáy tầng.

Kết
Hiện tượng dân Việt chờ đợi sự ủng hộ từ thế giới bên ngoài (Mỹ hay Trung Cộng) đều là tâm lý vọng ngoại, ngại hy sinh, muốn ăn sẵn của người dân hay nhân vật (gọi là) đấu tranh. Như Lý Đông A đã vạch ra, thái độ ỷ lại, vong quốc hay mãi quốc sẽ không thành công (cho dù bắt cóc bỏ dĩa) vì thiếu ý chí, lý thuyết (hay chủ nghĩa) để xây dựng nền tảng quốc gia và xã hội.
Người Việt trong nước và hải ngoại có nhiều khoa bảng, nhân tài, nhiều tỷ phú, triệu phú nhưng để tìm người quan tâm đến đất nước, có tu dưỡng thì còn trong đêm đen. Cho đến khi nào, cộng đồng VN phân biệt được thật, giả trong đấu tranh để có tầng lớp lãnh đạo mới thì khó mà thay đổi tương lai cho VN khi trò chơi nhân quyền chỉ là trò chơi trao đổi giữa Mỹ và cộng sản VN.
Trần Công Lân
Tháng 3 năm 2025 (Việt lịch 4904)

 

Bình luận về bài viết này