Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá vào thứ Sáu và ngày Chủ Nhật, ngài sống lại trong vinh quang. Đây là những ngày rất đặc biệt của các tín hữu Thiên Chúa Giáo đang đón mừng Chúa Phục sinh trên toàn thế giới.
“Thập Giá”, qua hình ảnh Giêsu mang hai bản thể “Người” và “Thượng Đế” kết hợp trong Ngôi Hai cứu thế, cùng với Chúa Thánh Thần là nội dung “ba trong một” của dân Do Thái. Tam tài của văn minh đông phương, nhất là Việt Nam cũng tương tự: Trời, Đất, Người kết hợp và vận động thống nhất thành Nhân Đạo (đạo sống Người) được cha ông ta theo đuổi từ ngàn xưa. Phật Giáo cũng có “ba” – Phật, Pháp, Tăng cùng kết hợp với nhau như một.
Nhiên, Nhân, Dân thống nhất
Trời trong đông phương hay thượng đế dân Do Thái được biểu tượng cho tự nhiên – môi trường sinh sống của muôn loài. Người sống nhờ tự nhiên (Nhiên), qua thiên nhiên mà làm phong phú đời sống và tiến hóa luôn mãi; do đó, người cần bảo vệ môi trường sống. Mẹ Tự nhiên (Mother Nature) chết đi, con người và muôn loài cũng hết đường sống.
Trước khi bị giới hạn bởi chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, địa lý…, ai cũng như ai, đều là người (Nhân). Từ cách nhìn này, mọi người sinh ra đều bình đẳng, bất kể mầu da. Nhưng người không thể sống riêng rẽ mà cần kết hợp thành xã hội để tự vệ, bảo vệ nhau và phát triển. Xã hội (Dân) từ đó ra đời.
Người Do Thái đã ngộ được điều trên, tương tự tam tài, nhưng có thể chưa rõ nên dùng biểu tượng gì, họ gọi tên bằng Chúa ba ngôi: Cha (trời), Con (người) và Thánh Thần hợp nhất. Cựu ước hay nói đến hình ảnh thượng đế xuất hiện trên đất bằng lửa.
Nhiên mang tính vô nguyên, không biết đâu là đầu, đâu là cuối, tương tự thượng đế của dân Do Thái – đấng vô thủy vô chung. Nhân có tính nhất nguyên, là một, đều bình đẳng dù có khác tiếng nói mầu da, như thượng đế lấy đất tạo Adam, lấy sườn Adam tạo Eva, là thủy tổ loài người theo cách nhìn của người Do Thái. Nhân nhất nguyên nhưng dân đa nguyên do khác biệt chủng tộc, văn hóa-lịch sử, phong tục tập quán. Mọi người, mọi dân tộc cần tôn trọng đa-nguyên-tính đó. Marx chủ trương đại đồng nhân loại trong rọ cộng sản là cách nhìn sai lầm trầm trọng, phá vỡ tính đa nguyên của dân. Cũng vậy, quan điểm dân tộc cực đoan, dân tộc thượng đẳng là hoàn toàn sai lạc.
Tuy ba mà một, như ba ngôi trong một Chúa, là mầu nhiệm của dân Do Thái. Đây là triết lý Nhiên-Nhân-Dân thống nhất hay tam tài mà nhiều nền văn minh đã nhận ra, đã ngộ được. Là hậu duệ kế thừa triết lý trên, người Việt chúng ta cần thấu triệt và sống cho đúng, đồng thời triển khai thành nền triết học chung cho nhân loại.
Nền triết học nhân bản này đã được nhà cách mạng Lý Đông A và Linh mục Lương Kim Định san định và khai triển trước kia. Chúng ta có nhiệm vụ tiếp nối và phát huy.
Trước hết, phải xác định người là gì? Điểm nào tách biệt “con” với “người”? Người kết hợp với nhau theo tiêu chuẩn nào? Biết được các điều trên mới xây dựng thành công một xã hội mang gốc người (nhân bản), theo tiêu chuẩn người (nhân tính), vì người (nhân chủ) mà phục vụ người.
Pascal cho rằng “con người là một cây sậy nhưng là cây sậy có tư tưởng”. R. Descartes phát biểu “tôi tư duy; do đó, tôi hiện hữu” (I think; therefore, I am).
Sau thời điểm khai thiên lập địa, loài người cũng theo đó mà ra đời. Người khởi đầu sống trong hang hốc, ăn tươi nuốt sống như động vật. Đây được coi là thời kỳ duy nhiên mà K. Marx mong lấy làm mẫu mực để xây dựng xã hội. Marx cho đó là giai đoạn kinh tế tự nhiên, ăn đồng chia đều, không ai giàu ai nghèo. Quả Marx có cái nhìn lý tưởng. Nhưng ông quên rằng trong thời kỳ duy nhiên, con-người mang nhiều chất con hơn chất người: đực cái lẫn lộn, ăn sống nuốt tươi, dơ bẩn mất vệ sinh, chưa có gì là tiêu chuẩn người; hơn nữa, đây là thời kỳ ăn lông ở lỗ, hái lượm, săn bắt những gì có sẵn trong thiên nhiên, chưa có kinh tế theo cách nhìn hiện đại. Vậy đã kinh tế thì không còn tự nhiên, mà tự nhiên thì chưa có kinh tế. Không thể lấy mẫu hình sơ khai mông muội đó để phóng chiếu xây dựng xã hội tương lai. Marx đã nhìn rất sai lầm. Tiền đề đã sai thì tất cả các điều theo sau khó đúng lắm!
Trở lại câu hỏi trên, điều gì làm người khác vật? Cái gì tạo nên xã hội?
Trước hết, ta thấy người có bốn thiên tính như các loài khác: sắc tính (duy trì và phát triển nòi giống), nhu yếu tính (ăn ở, đi lại, ngủ nghỉ…, rộng ra là kinh tế), cần sống hợp quần với nhau, tức tự vệ và xã hội tính. Bốn thiên tính cấu thành xã hội này được gọi là “xã hội tự tính”, loài nào cũng có. Nhưng để thành người, cần phải có các tiêu chuẩn cho các thiên tính đó để con-người ngày càng rời xa con mà tiến gần người.
Về sắc tính, con người thấy rằng không thể sống như động vật, đực cái lẫn lộn mãi. Người chọn trinh làm chuẩn theo đuổi. Trinh đây là lòng trung trinh song phương với nhau khi đã chọn được bạn đời của mình, nhưng không phải “chữ trinh” trong văn hóa Hán tộc. Nhờ vậy, đực-cái dần trở thành nam-nữ và vợ-chồng.
Cũng thế đối với tính nhu yếu. Người không thể tranh giành lẫn nhau về vật chất hay phương tiện sản xuất vật chất mà phải đối xử bình đẳng, công bình với nhau. Bình là tiêu chuẩn để người theo đuổi trên mặt nhu yếu.
Tự vệ và xã hội tính cũng phải xác lập một điểm chuẩn. Chỉ người mới có khả năng nghị hòa, ngay cả sau khi gây chiến. Thú thì không thể hòa, chỉ mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Thiên triều chủ nghĩa, dân tộc cực đoan, đàn anh-đàn em trong quan hệ ngoại giao… đều dần bị cả nhân loại chối bỏ.
Ta không nên theo nước nào muốn kéo ta đứng vào thế của thiên triều, chấp nhận người là chủ, mình là tớ. Hãy tiến theo trào lưu chung của các quốc gia cổ vũ sự bình đẳng và hỗ trợ lẫn nhau. Nói vậy, ai cũng hiểu Việt Nam nên theo ai. Hãy khôn ngoan đi theo xu thế tiến hóa chung để không bị lùi lại phía sau với “thiên triều”, lợi bất cập hại. Khi đã mang ý thức thiên triều, họ khó có thể tạo ra giá trị cao quý nào cho nhân loại noi theo. Không có lý do gì để đứng chung, nhất là lúc nào người ta cũng mang dã tâm xâm lược và đồng hóa chúng ta. Ta giao hảo, có khi phải nhún nhường, nhưng không thể cúi đầu tuân lệnh đi theo.
Một cách nhìn mới về Lễ Phục sinh liên quan đến số ba và ứng xử của cộng sản (P2)
Tạ Dzu