Sartre đã nhận định rõ quá trình làm người: «Nous sommes condamnés à être libres», chúng ta bị bó buộc phải tự do, nửa thế kỷ sau văn sĩ Lézio khi nhận giải Nobel văn chương càng làm rõ hơn lộ trình của chữ nhân: «Notre destin est dans notre liberté», số phận của chúng ta nằm trong tự do của chúng ta. Tức là chúng ta muốn làm gì với ý thức tự do của mình? Phục vụ cho công bằng, cho công lý hay cúi đầu trước bất công, trước bạo quyền? Số phận không phải là chuyện nhân quả xuôi chiều mà ta không sao xoay chuyển được, ngược lại số phận nằm trong sung lực của chất nhân xoay chiều, đổi hướng cái ác, thâm, độc, hiểm sinh ra cái xấu, tội, dở, tệ qua chiều hướng hay, đẹp, tốt, lành. Trong Phật học, câu chuyện này đã rõ từ 26 thế kỷ nay trong lập luận của Phật: nghiệp lực có thể được xoay qua chiều hướng bởi ý nguyện mà khi trở thành ý lực thì nghiệp lực sẽ vào quỹ đạo của nguyện lực, trong đó nghiệp chỉ là môi trường, còn nguyện là chủ thể hành động bằng ý thức để thay đổi môi sinh. Vậy mà Phật giáo tại quê nhà đã “vắng mặt” trong cuộc đấu tranh hiện nay vì nhân quyền và dân chủ, lại càng «vắng bóng» trong cuộc xuống đường đòi một môi trường trong sạch, sau vụ ô nhiễm tại miền Trung. Nếu giải thích là: «vì «ăn chay» nên không ăn cần cá!» đây là cách nói liều! Vì môi trường trong Phật học là môi sinh nuôi chúng sinh; không có chúng sinh thì không có Phật giáo, và Phật giáo sống vì sự sống của chúng sinh, trong đó không những có người, mà luôn cả cá và môi sinh. Trong khi đó tại hải ngoại Phật giáo Việt Nam thăng hoa không ngừng hơn nửa thế kỷ qua với ảnh hưởng quốc tế của thiền sư Thích Nhất Hạnh, với mạng toàn cầu hóa thiền học Làng Mai của thiền sư này, một tu sĩ tin yêu của Phật giáo Việt tộc, với những thế hệ thượng tọa kế thừa xứng đáng: Thích Phước Tịnh, Thích Minh Niệm…. Nhưng thật lạ là Phật giáo tại quốc nội thì «tanh bóng» trong chuyện độ đời, cứu chúng sinh trong đấu tranh chống ô nhiễm, thật thấp khi so với các phong trào đòi dân chủ, bảo vệ môi trường của Thiên Chúa giáo hiện nay, tại sao? Thật lạ! Tình thương của Phật giáo là chìa khóa là để cứu người, cứu đời, nhất là những nạn nhân đang chìm đắm trong nỗi khổ, niềm đau, mà tiêu biểu nhất là dân đen, dân oan hiện nay trên đất nước của Việt tộc. Vậy mà, các Thượng tọa xem như không thấy bóng dáng dân đen, dân oan trong các bài pháp thoại của họ. Nếu ngay trong pháp thoại của họ mà họ “nhắm mắt, làm ngơ” trước nỗi khổ niềm đau của dân đen, dân oan, thì họ đã phản bội các kiến thức căn bản nhất của Phật giáo. Vì, Phật học dụng quán chiếu thương người để có chánh niệm đi độ đời; chuyển niệm, định, tuệ thành bi, trí, dũng, để thương yêu muôn loài, không được bỏ sót một ai. Các vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo hiện nay, có nhận ra nghiệp oan của Việt tộc đang trên quỹ đạo nghiệp nạn không? Và nếu các vị cứ “nhắm mắt, làm ngơ” thì chính các vị đang vô tình tạo nghiệp chướng cho chúng sinh, mà nhất là chúng sinh lại là đồng bào, thì sinh nghiệp của họ các vị phải xem là sinh linh (sự sống linh thiêng) chứ! Đừng xây nhiều chùa, hãy xây dựng lại tuệ giác Phật giáo, hãy gầy dựng lại tri thức phật học, hãy tạo dựng lại từ bi Phật luận ngay trong não trạng của các vị!
Tại đây các nghiên cứu của xã hội học tôn giáo đã đưa ra ít nhất 5 kết quả điều tra, có thể trở thành 5 chỉ báo để phân tích chuyện «biệt bóng» của Phật giáo hiện nay. Thứ nhất, là các Thượng Tọa, Hòa Thượng khi được chính quyền công nhận là những kẻ đã cúi đầu trước bạo quyền, thậm chí còn thông đồng với chính quyền, và trong số đó lại còn có kẻ bị phật tử xem là «công an chìm» cho chế độ. Thứ hai là các chùa hiện nay được chính quyền bao che thường là nơi để làm thương mại hơn là chỗ để chăm lo cho Phật pháp, «xây chùa để làm tiền» là một hình thức tham nhũng tồi tệ, vậy mà đã có các tu sĩ thông đồng với bọn tham nhũng chuyên nghiệp biến chùa thành ra «nơi để làm ăn», đây là một vết chàm cho Phật giáo Việt Nam thời nay. Thứ ba là vẫn còn ít các lãnh đạo Phật giáo có bản lĩnh Phật pháp cao, nội công Phật đạo vững để tổ chức Phật tử thành cao trào đấu tranh vì từ, bi, hỷ, xả. Thứ tư là có chuyện đứt đoạn trong truyền thống đấu tranh của Phật giáo giữa thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, ngọn lửa của Thích Quảng Đức, của Nhất Chi Mai với bao hy sinh của các phật tử vì đạo pháp của các phong trào Phật giáo miền Trung và miền Nam trong thế kỷ XX vừa qua không được kế thừa bền bỉ; các đấu tranh của các Thượng Tọa tại Huế trong những năm 90 thế kỷ qua đã không thành cao trào. Thứ năm là có chuyện biến chất từ một Phật giáo trưởng thành trong đấu tranh của thế kỷ qua với tuệ giác: bi-trí-dũng (lấy từ bi để dẫn trí tuệ bằng dũng cảm) đã mất chỗ đứng trong các chùa làm thương mại, đã mở cửa thật rộng cho mê tín, dị đoan tràn vào niệm định-tuệ của Phật học! Nhưng 5 chỉ báo này thật chưa đầy đủ, vẫn còn phiến diện nếu không thấy 5 thực tế ngầm của Phật giáo hiện nay: Phật tử là cư sĩ có mặt trong các phong trào đấu tranh vì nhân quyền và dân chủ; họ có mặt không ít trong các cuộc xuống đường để bảo vệ môi trường vừa qua; hiện diện luôn trong các bài pháp thoại của các Thượng Tọa, Hòa Thượng còn lương tri Phật pháp; không hề vắng bóng trong các cuộc tranh luận: đạo và đời, đạo vì đời, đạo vào đời giữa tu sĩ và cư sĩ; và nhất là trong các nhóm tu sĩ có nhiều phân tích khác nhau nhưng tích cực về chuyện tham gia hay không vào các cuộc đấu tranh mới của dân tộc. Hiện nay thầy còn một nỗi lo khác nữa về: nhân diện, nhân cách làm ra nhân dạng người Việt với bao dòng thác vũ bão của thế giới văn minh đòi nhân quyền cho nhân sinh qua các hội đoàn từ thiện, nhân đạo mà nhân quyền và dân chủ là hải đăng của họ. Các bạn, các em, các con có biết không là trong các hội đoàn nhân quyền này họ có đầy đủ: tin tức, dữ kiện, chứng từ, hồ sơ, nhân chứng…về hiện trạng nhà tù của Việt Nam, họ có luôn hình ảnh trong ngục sâu với nhiều loại xiềng chân: xiềng vòng cung, xiềng tam giác để xiết, xiềng tam giác có khía để hành hạ, để gây thương tích, để tạo nhục hình qua thương tích rồi bệnh tật, giết tù nhân dần mòn trong đau đớn, có tù nhân bị nhiễm HIV trong điều kiện này. Thầy quan sát các buổi thảo luận về chuyện đày đọa, tù ải qua các nhục hình kiểu ĐCSVN đang làm này tại các hội đoàn nhân quyền quốc tế tại, thường xảy ra một chuyện rất bất nhẫn là có các người phương Tây phát biểu: «Tại sao «người Việt» còn mọi rợ như vậy trong khi xiềng xích chỉ dành cho nô lệ từ thuở xa xưa nào, mà nhân loại tưởng nó không còn nữa!». Trong khi đó sự thật không phải «người Việt mọi rợ» mà là chế độ ngục tù của ĐCSVN man rợ! Đây là một vấn đề nhận thức mà tính chính xác của tri thức phải phối hợp với tình thương của tâm thức để chế tác ra nhân cách đấu tranh chống lại mọi hành vi man rợ từ ngoài xã hội cho tới tận ngục sâu, nơi mà thú tính của cai tù đã lấy đi nhân tính của người tù. Người trí thức có trong tri giác của mình một cái vốn vô giá là cái tự do nhận thức, một tự do của lý trí làm ra trí lực để thăng hoa tâm lực, như vậy đứng về phía dân đen, dân oan vẫn chưa đủ, mà trí thức phải bảo vệ tất cả tù nhân lương tâm, đã hy sinh cuộc đời của họ để bảo vệ công bằng và công lý, qua dân chủ và nhân quyền, trong đó nhân quyền luôn làm chỗ dựa cho nhân tính, nhân tri, nhân lý, nhân đạo, nhân nghĩa vì nhân loại. Cụ thể là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mọi người Việt phải hằng ngày bảo vệ nhân cách, nhân diện Việt tộc trong quan hệ quốc tế, trong đó trí thức phải bảo vệ dân đen, dân oan, tù nhân lương tâm, và tất cả những đồng bào đang bị áp bức. Thể diện của một công dân không hề tách rời quốc thể của một dân tộc. Nỗi lo hiện nay của thầy ngày càng sâu vì trong công pháp quốc tế hiện nay đã có các Tòa Án Quốc Tế để xử các tội mà tên gọi của nó rất chính xác: tội ác chống nhân loại (crime contre l’humanité), chống phải hiểu ở đây là diệt, nhân loại ở đây không phải chỉ có dân tộc, mà là nhân loại nói chung, mang nhân phẩm, nhân tính, nhân bản…của cả loài người, cần phải bảo vệ cho bằng được trên bình diện quốc tế ngày càng phổ quát. Bất cứ một nạn nhân nào, người Việt hay người ngoại quốc, nếu có bằng chứng, đều có thể kiện các tội ác man rợ do các tội phạm được điều khiển bởi các lãnh đạo ĐCSVN. Và, nếu một ngày nào đó mà các lãnh đạo ĐCSVN bị vướng vào các tòa án quốc tế này với tội ác chống nhân loại, thì mỗi cá nhân chúng ta cũng ít nhiều bị xúc phạm nhân cách, chắc chắn là thể diện quốc gia (quốc thể) bị vấy bùn, mặc dù chúng ta không hề là thủ phạm, mặc dầu chúng ta là nạn nhân.
Tổ tiên Việt tộc dặn con cháu về nhân cách: «đói cho sạch rách cho thơm», với nhân diện trên đường của nhân nghĩa: «đường mòn nhân nghĩa không mòn», làm ra nhân dạng bằng nhân phẩm: «nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã (đừng) bỏ ta», câu chuyện nhân cách và nhân diện của chúng ta trong thư này có thể sâu hơn, có lẽ cao hơn câu chuyện «to be ou not to be» của Scheckpear, vì nó là chuyện: (đã) bỏ nhau rồi hay (đừng) bỏ nhau trước bài học của tổ tiên Việt tộc dạy con cháu có cùng một Mẹ Việt Nam, có cùng một bào thai nên gọi nhau là đồng bào: «một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ». Câu chuyện sống-với-nhau-thì không-bỏ-nhau của thầy không hề viển vông đâu, qua tri thức và tâm thức để có nhận thức rất dễ nhận diện ra trong nhân dạng, thí dụ tri thức của nó ta rất dễ nhận ra: đừng mang gươm giáo vào đời (Trịnh Công Sơn), thí dụ tâm thức của nó ta rất dễ nghe ra: Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi (Phạm Duy), thí dụ thật điển hình là Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực để chống lại bạo quyền trong ngục sâu, để đòi nhân quyền và dân chủ, tức là đòi lại nhân cách giáo lý Việt tộc cho quốc thể của chúng ta; và đồng bào ta, trong nước và ngoài nước, cũng tổ chức đồng hành tuyệt thực cùng ông, lương tri Việt tộc còn, vì nhận thức công dân việt còn. Như vậy, câu chuyện «một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ» là có thật, đây là nhân cách việt, các bạn, các em, các con quý thương của thầy, chúng ta đừng bỏ rơi dân đen, dân oan, các tù nhân lương tâm và tất cả những đồng bào đang bị áp bức nhé! Vì đây là nhân cách, nhân diện; nhân dạng của chúng ta.
Sống có nhân mười phần chẳng khốn….
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).