Nhân Diện Tạo Sĩ Diện (P3)

Nhân cách + nhân diện = nhân dạng
(tri thức + tâm thức = nhận thức)
Tại sao chuyện nhân cách và nhân diện tạo ra nhân dạng, không chỉ là chuyện bề ngoài của phong cách và tư cách nói lên thể diện và sĩ diện của một cá nhân mà lại là chuyện nội dung thâm sâu của tri thức và tâm thức làm ra tự nhận thức của cá nhân đó! Thầy xin trả lời: chọn khoa học xã hội và nhân văn, khác với chọn các ngành khoa học chính xác và thực nghiệm, đi học toán thì không cần biết thế nào là công bằng và công lý; đi học: sinh, hóa, lý thì không cần thấu thế nào là bất công, là tham nhũng… nhưng khi đi học khoa học xã hội và nhân văn mà không có ý kiến gì về nhân quyền và dân chủ, thì bị xem như có khuyết tật trong tư duy, hoặc thui chột trong lý luận. Đi học khoa học chính xác và thực nghiệm thì không cần kết quả để bảo vệ công bằng và công lý, nhưng đi học khoa học xã hội và nhân văn mà không có can đảm thì sẽ không dám đứng về phía sự thật, chân lý, lẽ phải, như vậy thì không khác gì kẻ câm, mù, điếc, dại, có khác gì những kẻ đi «ăn mày» bằng cấp chỉ để phục vụ cho tư lợi riêng mình. Khi đi nghiên cứu, điều tra, điền dã cho khoa học xã hội và nhân văn, trên quê hương Việt Nam hiện nay mà không thấy, hoặc thấy mà không dám mô tả, phân tích, giải luận, bằng dữ kiện và chứng từ là dân đen, dân oan đang là nạn nhân của tham ô, tham nhũng, hối lộ, đút lót của bạo quyền; cũng không thấy luôn một chế độ công an trị đã công an hóa mọi tổ chức xã hội, trùm phủ bóng đen độc tài lên mọi định chế, mọi cơ chế, nhìn-mà-không-thấy thì: đừng ở lại với khoa học xã hội và nhân văn. Trong chế độ này, trong tay công an thì người dân có thể bị đàn áp, đánh đập, bỏ tù, tra tấn, giết chóc, thấy và hiểu tức là sẽ phân tích được và giải thích được; còn không muốn thấy và không muốn hiểu thì khác gì chột, què, ngọng, lảng trước bổn phận và trách nhiệm của học giả mà cũng là tác giả công trình học thuật của chính mình. Dấn thân vì chính nghĩa là quyền của mỗi cá nhân, nhưng liêm sỉ để bảo vệ sự thật, liêm chính để bảo trì chân lý là hạ nguồn của mọi kết luận trong khoa học nhân văn và xã hội. Hai từ: chân và lý vừa là gân cốt, vừa là linh hồn của khoa học xã hội và nhân văn. Trong khoa học, hai nhà toán học tranh luận với nhau về toán học thì ít có chính quyền nào để ý tới; nhưng hai nhà kinh tế, hai nhà xã hội học, hai nhà dân tộc học tranh cãi nhau về kinh tài, về giáo dục, về văn hóa thì lập tức gây chú ý cho các lãnh đạo chính trị. Cũng chỉ vì kiến thức của khoa học xã hội và nhân văn thường bị các lãnh đạo này «lấy xài lại» cho tính toán chính trị của họ. Cái lõi của vấn đề khi nghiên cứu các vấn đề xã hội là chúng ta đang làm chuyện giải mã: từng khâu, từng khúc, từng đoạn quan hệ (thân trọng) giữa người và người qua quyền lực và quyền lợi. Câu chuyện nhân cách cùng nhân diện làm nên nhân dạng là câu chuyện nhân phẩm làm nên nhân tính, trong đó nhân đạo làm nên nhân nghĩa qua quỹ đạo của nhân trí đã chế tác xong nhân tri; ở đây chữ nhân luôn mang sung lực của tự do. Tự do không nằm trong định nghĩa thô thiển là muốn làm gì thì làm, mà nó luôn luôn bị thử thách qua thực tế, trên con đường của thực tại, với các chướng ngại đang ngăn trở chúng ta đi tìm chữ nhân (cao, rộng, sâu, đẹp) này. Trước bất công tới từ bạo quyền, chúng ta có hai tự do, mà cũng là hai chọn lựa: một là cúi đầu, khoanh tay rồi quỳ gối; hai là ngẩng đầu, đứng dậy để đấu tranh. Và khi chấp nhận đấu tranh thì nhân phẩm và tự do đã quyện lại làm một: một tổng thể, mà xã hội học chính trị gọi là tổng thể của tổng lực đạo lý đủ tầm vóc tạo ra sức bật tổng động viên toàn xã hội. Đây là loại sức mạnh vô cùng lạ trong quá trình làm người -lộ trình của chữ nhân-mà các chế độ độc tài, độc đảng thường hay «mất ăn, mất ngủ», nó bắt đầu bằng vài trận mưa sa, rồi thành từng cơn mưa rào và chỉ một sớm một chiều thành mưa lũ, cuối cùng là một trận đại hồng thủy cuốn đi tất cả các rác rưởi, thối nát của độc tài, độc đảng; mà tổ tiên của Việt tộc đã đúc kết thành qua hình tượng: «tức nước vỡ bờ».
Các lãnh đạo Việt Nam hiện nay mà thầy thường thấy qua các buổi họp tại Liên Hiệp Quốc, quanh các bàn họp của các chính quyền khối Âu Châu, trong các hội nghị quốc tế, thì thầy: không biết họ đang gật gù hay họ đang gà gật! Ngày đầu tiên khi họ tới các sân bay quốc tế, lúc nhận hành lý tại, thì họ có nhiều nhân viên giờ đã trở thành đầy tớ của họ để vác hành lý, để khiêng vật tư, để làm dịch vụ, để thông dịch… vì họ vừa không có ngoại ngữ, vừa không chủ động được chuyện đi lại của chính họ. Ta không thấy nhân dạng của họ trong những việc dễ nhất, thì làm sao ta thấy được nhân cách họ trong lãnh đạo, nhân diện họ trong quản lý.
Các lãnh đạo này thường thì chỉ chờ họp xong là họ đi mua đồ, giữa họ với nhau họ còn đùa là: «có họp gì đâu, toàn đi shopping! ». Hệ lụy ở đâu? Nó ở ngay trong chuyến công vụ của họ, thay vì chỉ chi tiêu một chi phí hàng không, thì ngân sách phải tốn đến ba bốn cái vé máy bay, chưa kể ăn nhà hàng, ở khách sạn trong quá trình công vụ. Như vậy câu chuyện nhân cách giờ đã mang nội dung kinh phí chống tập thể, và phản kinh tế vì bòn rút trên thuế của dân. Chỉ vài ba ông chủ tịch tỉnh (mà mỗi năm thường kêu than với cả nước là phải «cứu đói» tỉnh của họ), vậy mà mỗi lần xuất ngoại mang theo vài người tháp tùng để làm «đày tớ» khuân vác vừa hành lý, vừa làm dịch vụ khai báo cá nhân cho họ. Việt tộc sẽ đi về đâu? Nếu vô nhân cách qua lãng phí, thì chắc chắn vô nhân diện trong hối lộ, để thành vô nhân dạng trước thế giới văn minh hiện nay. Khi họ về nước thì họ chỉ khoe khoang các đồ tiêu dùng mà họ mua được, các bức ảnh, các bộ phim du lịch mà họ chụp quay được, còn dân thì không thấy họ minh bạch hóa thành quả (và hậu quả) công vụ của họ. Cái thiếu liêm chính trong nhân cách đi đôi với cái vắng nhân diện trong giao tế, khi biết thầy là giám sát viên cùng lúc tư vấn một số công trình của Liên Hiệp Quốc mà họ muốn có chỗ đứng, có ghế ngồi, thì thay vì họ nên hỏi ý kiến của thầy về cách lập hồ sơ thế nào để dự án của họ: có sức thuyết phục sâu, có lý luận nội kết vững, có lập luận hợp lý cao, thì họ thường hỏi thầy về các chuyện: «quen biết ra sao để móc nối cho dễ», «biết quyền để dễ tặng quà», «biết chức để tính đường tắt»…như vậy, thì hỏi sao thể diện của họ được tôn trọng, phong cách của họ được quý yêu.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Bình luận về bài viết này