Nhân Cách Tạo Nhân Dạng (P4)

Nhân diện vực thể diện
Nhân diện của một dân tộc được thấy qua các lãnh đạo của dân tộc đó trên chính trường qua quan hệ quốc tế; và thể diện của một đất nước được nhận diện qua cách tổ chức xã hội, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật…và nhất là được viết rõ ràng trong hiến pháp đất nước đó. Trước hết hãy dựa vào hai chuyên môn dày uy tín trong khoa học xã hội và nhân văn hiện nay là: dân tộc học văn hóa và xã hội học giáo dục để phân tích phong cách chính trị tới từ tư cách tri thức của các cá nhân lãnh đạo của ĐSCVN, vừa chủ chốt trong chính quyền, vừa là ủy viên hàng đầu của Bộ Chính Trị, cơ quan chịu trách nhiệm về mọi kết-quả-và-hậu-quả xảy ra cho dân tộc, cho đất nước, cho xã hội. Gần đây nhất là cảnh bà Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho cá ăn cạnh Tổng Thống Obama tháng 5, 2016 mà khi dân ta xem thì vừa nực cười, vừa xấu hổ, hẹn nhau trên mạng xã hội internet để vừa “ôm bụng cười”, “vừa hổ thẹn” rồi tâm sự với nhau là: “bà Chủ Tịch Quốc Hội cho cá ăn mà như xúc cám cho heo ăn”, không những bà làm Tổng Thống Obama “ngượng thay bà”, vì rõ ràng là bà không biết ngượng, đây là lỏi của hệ vấn đề thể diện, người thanh luôn “ngượng” thay kẻ tục, chỉ vì người tục đâu có biết là mình tục! Mặc dù tổ tiên Việt tộc đã dặn dò con cháu:“học ăn, học nói, học gói, học mở”, dân Việt không biết bà Chủ Tịch Quốc Hội được giáo dục trong gia đình, trong học đường, trong xã hội như thế nào, nhưng chỉ một cử chỉ chớp nhoáng cho cá ăn của bà, bà đã để lộ ra nhân diện của bà là: bà không phải là thành viên của thế giới thanh, tư cách của bà làm lộ không gian tục của bà, khi bà rành rành “ra tay” cho cá ăn. Còn vị Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, của một đất nước hơn 90 triệu và đang gần 100 triệu, trong diễn văn nói về xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, và dặn mọi người là phải hãnh diện khi thấy nhãn hiệu khi đọc: Made in Vietnam, lúc ông phát âm từ made mà cả hội trường nghe ông phát âm là: ma zê! Tại sao lại ma zê? Chuyện dị là ông không biết ngoại ngữ mà ông thích phát âm (sai) ngoại ngữ. Trước cách phát âm “độc nhất vô nhị”, mà các người ngồi trong hội trường tâm sự với nhau qua ngạn ngữ của dân gian: “nghe mà muốn độn thổ!” giờ đã lên mạng xã hội, không sao xoá-xáo được. Mặc dù tổ tiên Việt tộc đã dặn dò rất kỹ con cháu là:“biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”, chuyện tư cách lãnh đạo ở đây “tự sa đọa ngoại ngữ” làm cho các học sinh biết và đang học ngoại ngữ từ tiểu học tới trung học, từ đại học tới các chuyên gia ngoại ngữ Việt Nam đang làm việc hằng ngày bằng ngoại ngữ trong quan hệ quốc tế vẫn còn: “mất hồn”, sau khi nghe cách phát âm mà ông Thủ Tướng “tự sáng chế” ra. Kinh hoàng nhất là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu về chuyện chống tham nhũng, nhưng thật ra là bao che cho tham nhũng khi ông khuyên người ta nên “tha thứ” cho tham nhũng bằng thí dụ là trong truyền thuyết Tam Tạng thỉnh kinh, người muốn thỉnh kinh phải “hối lộ” cho kẻ giữ kinh, kiến thức Phật học của ông thật là kinh hoàng! Mặc dù tổ tiên Việt tộc đã dặn dò rất rõ con cháu là phải: “giữ miệng như giữ nút bình”, chuyện tư cách lãnh đạo tại đây là cái vô minh đã mở đường cho cái xuyên tạc sống sượng, cái vô tri đã mở lối cho cái chụp mũ tồi tục, cái vô giác đã đưa ông vào ngõ cụt không còn lối thoát cho nhân trí của cá nhân ông. Từ lâu cái vô tri cũng đã có chỗ ngồi từ khi ĐCSVN độc quyền cai trị đất nước, ngay trong Hiến Pháp Việt Nam do ĐCSVN viết với điều 4 là đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo dân tộc, nhân cách của Việt tộc đã bị cưỡng hiếp bởi điều 4 này. Vì độc tài là mất dân chủ, vì độc đảng là mất nhân quyền: hơn 90 triệu dân Việt Nam không có chỗ đứng trong Hiến Pháp Việt Nam, nơi mà Hiến Pháp đã là ghế ngồi kiểu Mã Giám Sinh: “ghế trên ngồi trốc sổ sàng”, một kiểu ngồi vô nhân cách vì phản nhân trí. Nhưng ngoài xã hội thì nhãn hiệu “nhân dân” có ở mọi nơi: tòa án nhân dân, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, ban kiểm soát nhân dân… các nghiên cứu, điều tra trong chính trị học xã hội của các chuyên gia quốc tế về việc này thì rất rõ: tại Việt Nam chỗ nào có bảng hiệu “nhân dân” thì chỗ đó không có nhân dân, nếu nhân dân xuất hiện thì họ là nạn nhân, không dân đen thì cũng là dân oan.
Bachelard khuyên chúng ta nên: «il faut faire la psychanalyse du savoir», phải làm phân tâm học cho tri thức, làm chuyện mổ xẻ tri thức tới nơi tới chốn, vì tri thức làm ra từ kiến thức, giúp lý trí điều khiển lương tri của mỗi cá nhân, cho nên tri thức là một không gian được tổ chức bằng các quy định khách quan vừa có minh chứng, vừa có lập luận. Từ trường học tới khoa học, tri thức là một không gian có tổ chức qua kiến thức được vận hành bằng trí tuệ, có minh chứng qua chứng từ trong diễn đạt. Ngược lại với giới chính trị, kẻ có quyền có thể dùng quyền của nó để diệt đối phương, để loại đối thủ, nhưng trong học thuật thì hơn nhau qua tri thức, trong khoa học thì thắng nhau chứng minh, nơi mà sự thật là chân lý. Cái chân của cái lý có sức nội kết mãnh liệt với cái luận của cái thật, chuyện “đánh lận con đen”, chuyện “cả vú lấp miệng em”, chuyện “ăn gian nói dối” hoàn toàn không có chỗ đứng trong không gian vô vụ lợi của học thuật, một không gian luôn được khách quan hóa của khoa học. Trong lịch sử của Việt tộc, các tri thức của Nguyễn Trãi, của Chu Văn An, của Nguyễn Bỉnh Khiêm đi trên lưng, trên vai, trên đầu bọn quan lại nịnh thần tà tri, xảo lý! Trong đó bi kịch lịch sử của trí thức Việt Nam là một nguồn nước ngầm đầy nước mắt: các trung thần có tri thức thường bị các gian thần xấu, tồi, dở, tệ, dùng các thủ đoạn thâm, độc, ác, hiểm để hãm hại. Nhưng các trí thức trung thần không chấp nhận cảnh “qua sông thì phải lụy đò” tức là phải cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trước cái gian, tà, xảo, lừa, chỉ vì nhân diện của lành cho sạch rách cho thơm, chỉ vì sĩ diện của giấy rách phải giữ lấy lề. Nhưng trước hết là họ thật sự thương dân: “máu chảy tới đâu ruột đau tới đó”, họ đứng về phía dân đen và dân oan các bạn, các em, các con à! Kiến thức có bản lĩnh thông báo, tri thức có sung lực công báo, lý trí có tầm vóc tri cáo ra các con đường đi tới của nhân loại, tổng hợp kiến thức-tri thức-lý trí luôn là cuộc cách mạng cho nhân trí và nhân tri, một cuộc cách mạng không ngừng nghỉ, luôn được đẩy tới bằng các khám phá của học thuật, các phát minh của khoa học, nó thực sự giải phóng nhân sinh bằng nhân trí. Trong cuộc cách mạng tổng hợp khoa học và học thuật này thì: không có kiến thức đừng nên lãnh đạo, không có tri thức đừng nên quản lý, không có lý trí đừng nên làm chính trị, vì làm trong vô minh, vô tri, vô giác thì chỉ làm khổ nhân cách, phong cách, tư cách của người khác, cùng lúc làm nhục nhân diện, thể diện của mình; và hãy khoan nhắc tới từ sĩ diện, phải thật sự làm kẻ sĩ không những với kiến thức, tri thức, lý trí mà phải có luôn đạo lý, luân lý mới có sĩ diện. Trong khoa học tri thức (science cognitive) đang vũ bão với các khám phá về bộ óc, trợ lực các khoa học khác với bao thành quả làm thay đổi nhân trí của nhân loại hằng ngày, hằng tuần. Miller khẳng định là khám phá của khoa học bộ óc là thành quả của tri thức làm nên kiến trúc sinh động cho kiến thức vì kiến thức. Turing thì tin là cấu trúc của bộ óc là một hệ thống thông minh làm ra thông minh, ngày càng phức tạp, cùng lúc ngày càng hoàn chỉnh. Nói gần nói xa không qua nói thật, chúng ta thành tâm yêu cầu: khoa học bộ óc, khoa học tri thức, tri thức luận có chỗ đứng trung tâm trong Trung Ương Đảng, trong Bộ Chính Trị, trong Chính Phủ, trong Quốc Hội, trong mọi tuyển chọn và bố trí nhân sự trong lãnh đạo, tức là có chỗ đúng trung tâm trong tri thức của những kẻ muốn lãnh đạo dân tộc ta.
Marx, cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản rất thành tâm khi ông viết: «le savoir vrai du travail intellectuel est dans la critique où la distance par rapport à la société et son ordre est nécessaire », tri thức thật trong công việc của trí thức là phê bình nơi mà chuyện giữ khoảng cách với xã hội và trật tự của nó là cần thiết, ở đây trật tự của xã hội được tổ chức qua quyền lực của giai cấp lãnh đạo; và vai trò chính của trí thức là làm công việc phê bình khách quan qua trí thức, vô vụ lợi qua học thuật, đây là nhân cách của khoa học và nhân diện của học thuật. Riêng Weber, một trong những tổ khai sinh ra xã hội học, qua các điều tra về các sinh hoạt của trí thức thì khám phá ra một sự thật khác là: «on devient administrateurs de la science, parce qu’on ne peut devenir les meilleurs scientifiques», có người trở thành các nhà quản lý khoa học, chỉ vì họ không phải là các nhà khoa học giỏi, đây mới là bi kịch của ung thư cơ chế trong sinh hoạt học thuật và khoa học Việt Nam hiện nay. Làm chủ tịch hay làm giám đốc, có chữ ký cùng lúc có con dấu, là để thao túng ngân sách trong nghiên cứu khoa học, là để hưởng bổng lộc rất nhiều cạnh lương bổng hằng tháng, theo quy luật xấu xa “có quyền phải có tiền” đang sa đọa hóa các sinh hoạt nghiên cứu qua lãng phí ngân sách, biến các hội đàm thành tiệc tùng, biến công vụ quốc tế thành du lịch cá nhân, có khi còn đem theo gia đình xuất ngoại cùng bằng cách luồn lách qua chuyện khách sạn, nhà hàng, du lịch. Péguy rất sáng suốt khi vạch mặt bọn «đục nước (cơ chế) béo cò (lạm quyền)» này: «le milieu intellectuel ne s’identifie pas à un parti – qui dispose d’une organisation – mais à une force des idées», giới trí thức không cần nhập vào một đảng phái luôn dựa trên một tổ chức, nhưng nó có một sức mạnh của ý tưởng; ý tưởng ngược lại với mơ tưởng viển vông, ý tưởng làm nên ý lực vì nó sinh ra từ nội lực của kiến thức, nội công của tri thức. Hậu quả là có nhiều lãnh đạo có học hàm lớn, có học vị cao trong các cơ chế khoa học mà không có một công trình nghiên cứu nào để làm tổng kết cho cả cuộc đời làm khoa học của mình; không có đóng góp nào cho học thuật nước nhà trong sinh hoạt quốc gia và quốc tế. Đồng nghiệp, sinh viên không thấy chương trình nghiên cứu đoản kỳ, trung kỳ, trường kỳ của họ; không nhận ra lúc nào họ nghiên cứu vì họ không bị bắt buộc phải công bố, xuất bản, ấn hành các thành quả nghiên cứu của họ. Và trên bục giảng, trong giảng đường, trước sinh viên, họ không giảng bằng các công trình nghiên cứu cá nhân của họ như đại học yêu cầu, mà chỉ xài lại các sách giáo khoa của các tác giả khác. Từ gian lận họ đã tự gây ra bao ngộ nhận! Vì quy luật của đại học là: đại học tự điều khiển-tự điều hành đại học, bằng chính các công trình khám phá trong khoa học, các nghiên cứu khai phá trong học thuật. Đại học không phải là trung học, tiểu học lấy giáo trình làm xương sống cho giáo dục, lấy giáo án làm xương cốt cho giáo khoa. Trong sinh hoạt đại học cũng như trong sinh hoạt tri thức: danh chính ngôn thuận làm ra nhân diện của mỗi trí thức là công trình cá nhân của họ, cũng làm nên sĩ diện của họ trước đồng nghiệp và quần chúng, khi các công trình của họ được công bố. Tổ tiên Việt tộc vẫn dặn dò con cháu là: “nói với người khôn không lại, nói với người dại không cùng”, nói không lại với người khôn vì sự thật của họ phải học, vì chân lý của họ phải hiểu, vì lẽ phải của họ phải thấu; nhưng đáng lo nhất là nói với người dại không cùng, vì không cùng là không lý, không trí, không tri, không tuệ, không giác.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này