Nhân Cách Tạo Nhân Dạng (P3)

Phong cách dựng tư cách
Hegel tìm cách đưa tri thức đi xa hơn nữa khi lý giải là tri thức tự tư duy (trí thức tự suy nghĩ), vì tư duy là xếp đặt dữ kiện trong trật tự, minh chứng dữ kiện qua minh bạch của chứng từ, xây trí tuệ thành hệ thống. Tri thức tự tư duy là một tổng thể hoàn chỉnh: có học, có hiểu, có biết, có nghiệm, có chứng, có giải, có luận, có lý, có kết. Hiện trạng giáo dục Việt Nam hiện nay đang đi ngược hoàn toàn lại quy trình giáo khoa trí tuệ này, một thí dụ làm trò cười cho các chuyên gia quốc tế khi nghiên cứu về giáo trình của môn học với tên gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, mà theo các chuyên gia này thì đây là chuyện «đánh bạc giả» ngay trong nội dung giáo án. Nếu không có định nghĩa tư tưởng là một hệ thống của: hiểu, biết, nghiệm, chứng, giải, luận, lý, kết thì sẽ không có tư tưởng; những lời khuyên nôm na dân dã thực dụng tức khắc cho nhu cầu chính trị, những khẩu lệnh dân gian thức thời vì chính sách qua lời nói của Hồ Chí Minh không phải là tư tưởng, vì người học giáo trình này không thấy: lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận… của nó. Một tư tưởng chính thống thì có lối vào cho phán xét, lối ra cho phê bình, ĐCSVN có đủ bản lĩnh giáo khoa, có đủ nội công giáo trình, có đủ tầm vóc giáo án để thực sự mổ xẻ phương pháp giáo dục này qua hội thảo, hội đàm, hội luận, vừa khách quan, vừa khoa học không? Nếu không thì chuyện «đánh bạc giả» trong tuyên truyền sẽ thành chuyện «đánh lận con đen» trong giáo dục, nếu đánh giả là bản chất, nếu đánh lận thành phản xạ thì đây là trọng nạn cho nhân tri Việt tộc, sẽ kéo dài thành trọng thương trong giáo dục, mà trường học sẽ không còn là nơi truyền đạt kiến thức mà ngược lại là nơi hủy diệt tri thức; sẽ không còn là nơi trao truyền trí tuệ mà ngược lại là nơi truy xóa lý trí. Hậu quả chuyện thần thánh hóa Hồ Chí Minh qua một tư tưởng hư, một kiến thức hão, không những tạo ra ngu dân, mà xa hơn nữa nó tạo ra bao thế hệ đi ngang tiểu học, đi dọc trung học, đi xuyên đại học, mà khi nhận bằng cấp thì không biết rõ đẳng cấp của mình như thế nào trong kiến thức giáo khoa bình thường của giáo dục thế giới hiện nay. Thần thánh hóa Hồ Chí Minh trong học đường, ngoài xã hội, qua tuyên truyền bất chấp sự thật, đây là một quá trình phản kiến thức, phản tri thức, phản trí tuệ, vì sự thật về lịch sử cá nhân của Hồ Chí Minh còn rất nhiều ẩn số chưa công bố hết, còn nhiều biến số mà các thế lực chính trị bất chính phải giấu giếm. Các kết quả nghiên cứu về cuộc đời của ông qua các công trình của các sử gia của Tây Âu và Bắc Mỹ thì rất khác, rất xa các hình ảnh thần thánh (nơi mà hình tượng vượt cả định nghĩa về thần tượng) của Hồ Chí Minh mà dân Việt phải chịu nghe qua tuyên truyền –kiểu nhồi sọ- của ĐCSVN. Riêng thầy khi nghiên cứu các văn khố thuộc địa cho luận án tiến sĩ cũng là cuốn sách đầu tay, thầy đã có các chứng từ là bút hiệu Nguyễn Patriote trong các bài đăng trong báo Humanité của Đảng Cộng Sản Pháp, không chỉ riêng của Hồ Chí Minh mà của nhiều trí thức Việt kiều có tri thức pháp ngữ vững, với kiến thức có hệ thống của trường lớp Tây học, với ngữ pháp có học lực. Chuyện đáng ngại hơn là trong hội nghị Fontainbleau, 1954 mà lãnh đạo phái đoàn Trung Quốc là Chu Ân Lai đã qua mặt phía Việt Nam mà lãnh đạo phái đoàn Việt Nam là Phạm Văn Đồng, đã đi trên vai, trên đầu các lãnh đạo của ĐCSVN thời đó để đi đêm với các cường quốc trong con cờ Pháp lùi ra cho Mỹ vào Việt Nam, để cắt đôi đất nước. Khi Chu Ân Lai đưa phương án cắt đôi đất nước bằng vĩ tuyến 17, qua con sông Bến Hải, chính Phạm Văn Đồng cũng không biết địa danh đó là chỗ nào trên đất nước ta. Đây là “điềm xấu” mà khoa học xã hội và nhân văn đặt tên chỉ báo khống chế thâm-bạo: xâm phạm báo tin xâm lược sẽ tới! Hai năm sau, 1956, lãnh đạo của ĐCSVN cũng là Phạm Văn Đồng đã ký thác công nhận Hoàng Sa là của Trung Quốc, nỗi lo sâu của chúng ta là lãnh đạo của ĐCSVN đã nhiều lần có thái độ khuất phục, để Trung Quốc quyết định số phận của Việt tộc, mà cho tới nay nội dung chuyến đi đêm của ĐCSVN trong hội nghị Thành Đô, dân tộc ta vẫn chưa rõ. Đi đêm-cúi đầu-bán đứng đúng là chuyện thật đáng lo!
Husserl, cha đẻ của hiện tượng luận, tin rằng tri thức là cầu nối giữa tư tưởng bên trong và thế giới bên ngoài, nó có đường ra để khám phá các chân trời, nó có lối về khi dùng kiến thức để chế tác ra ý muốn, nơi mà ý định đã thành ý lực, để ta có lý luận trên chính tư duy của ta; trên những cái mà ta đã biết, luôn cả trên những cái mà ta đang muốn biết. Tri thức là cuộc thám hiểm của kiến thức để làm nên lý trí cho trí tuệ; sự hiện diện của tri thức trong cuộc sống của chúng ta có ngay trong sự hiểu biết và cách giải thích qua khoa học luận: hiểu được thì giải thích được, giải thích được thì coi như đã hiểu rồi, biên giới giữa hiểu biết và giải thích không còn nữa, hai lãnh thổ những thực ra chỉ là một. Ngược lại nếu không giải thích được tức là chưa hiểu, nhưng nếu phát biểu là “hiểu rồi mà không thể giải thích được” thì đây là nói liều! Nói liều rất dễ qua nói điêu, đây là thảm trạng sách giáo khoa mà các lãnh đạo của ĐCSVN đã giao cho những kẻ có học vị mà không có học lực, có học hàm mà không có học thực, và họ đã quản lý, ấn hành, xuất bản, những kiến thức sai trái mà các học sinh phải học. Khi tốn bạc tỷ rồi mới thấy sai, xin lỗi, in lại, tốn bạc tỷ lần nữa, sách giáo khoa mà sai thì chỉ có từ một chế độ ngu dân, với một nền giáo dục mà các bộ trưởng, thứ trưởng, cục trưởng của Bộ Giáo Dục Việt Nam không hề để lại một công trình nghiên cứu nào, một văn bản nào, một sáng kiến nào, một đề nghị nào đáng chú ý về giáo dục, giáo khoa trong các hội thảo, hội luận, hội đàm quốc tế về giáo dục hiện đại. Giật dây động rừng: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường học mang hệ lụy của một môi trường lấy vô tri thay nhân tri, lấy vô trí thay nhân trí, với các loại sách quái gở: Bác Hồ và giáo dục, Bác Hồ và văn học, Bác Hồ và văn nghệ, Bác Hồ và nghệ thuật…. Sự thật mất lòng: nếu lấy kiến thức của Hồ Chí Minh để soi sáng giáo dục, lấy tri thức của Hồ Chí Minh để phân định văn học, nếu lấy trí tuệ của Hồ Chí Minh để nhận định nghệ thuật, thì những tác giả của các cuốn sách này thật sự là những quái thai trong hệ tư duy của nhân loại.
Câu chuyện giáo dục của một dân tộc là câu chuyện nhân diện qua nhân tri, nhân cách qua nhân trí của dân tộc đó! Khi một kiến thức tới từ một tư tưởng, giờ đã thành giáo khoa, thì giáo trình phải mở cửa cho tri thức để giáo án là điểm hẹn của: phân tích để phân định, giải thích để giải luận, mọi kết luận của một tư tưởng có lực đóng góp vào nền tảng của lý trí và đạo lý. Như vậy, tri thức là sự hiểu biết các giá trị nhân lý tới từ tư tưởng này; có được sự hiểu biết các giá trị đạo lý này mới bắt đầu đi tìm nền móng cho luật pháp. Vậy thì khi tri thức đã gầy dựng xong lý luận cho lý trí, thì lý luận này đã là một lập luận hợp lý từ đạo lý tới pháp lý. Trong giáo dục, thì giáo khoa có chức năng là truyền đạt kiến thức, vừa qua thể nghiệm, vừa qua minh chứng; ngược lại với tuyên truyền là cưỡng ép giáo dục biến nó thành một công cụ của ý thức hệ để phục vụ cho chính sách của tầng lớp lãnh đạo. Giáo khoa là nơi: nêu để biết, biết để hiểu, hiểu để tiến, tiến để đạt, đạt để nâng, nâng theo hướng đi lên (cao) và đi tới (xa), chỉ cần xem giáo dục qua giáo khoa, giáo trình, giáo án là nhận ra nhân cách tri thức và phong cách trí thức của một chính quyền, mức độ và trình độ của các lãnh đạo trong chính quyền này. Nói chuyện nhân cách tri thức và phong cách trí thức, thì không thể nào không bàn tới tư cách của lãnh đạo trong chính quyền hiện nay: họ áp đặt, o ép, chèn nén một hệ thống giáo dục ngày càng suy đồi, nhưng con cháu họ thì đã đi du học ở phương Tây, cũng như tiền của bất chính của họ cũng đã qua phương Tây rồi. Chỉ trên hai chuyện bất chính này: gian lận trong giáo dục và giàu gian nhờ tham nhũng, mọi người dân đều thấy nhân cách tồi, phong cách thấp, tư cách hèn của các lãnh đạo này. Tổ tiên Việt tộc dặn con cháu là bọn người vừa «ăn trên, ngồi trốc», vừa «đi ngang về tắc», thì không có nhân diện minh bạch, thể diện minh chính, sĩ diện thì chắc chắn là không có; vì muốn có sĩ diện phải có tri thức của đạo lý, và lý trí của pháp lý! Và, cách học tập của phần lớn con cháu của bọn này tại Tây Âu và Bắc Mỹ cũng thấp, hèn, thô, tục như cha ông chúng, tức là học theo quy trình của «con vua thì được làm vua», «con quan thì được làm quan», đừng mong họ học vì tri thức, học để thao tác trí tuệ, học để sáng tạo kiến thức! Bọn này không có ý muốn khai phá nhân trí, mà chỉ có ý đồ lấy bằng cấp làm bình phong để tiến thân theo kiểu «ngưạ quen đường cũ» của cha ông chúng, phần lớn họ không có ý lực khai sáng nhân tri, mà chỉ có ý tà lấy học vị để buôn học hàm. Muốn kiểm tra, thẩm định, phán đoán đám người này thì chúng ta không cần xem học hàm, không cần xét học vị, mà phải vào thẳng học lực của họ, bằng cách xem xét về đại học là nơi đã đào tạo chuyên môn, huấn luyện chuyên ngành cho họ rồi cân, đo, đong, đếm học lực của họ, chỉ có học lực mới là thực chất của kiến thức, là thực tài của tri thức, chớ không phải học hàm hay học vị! Không thấy (thực chất) thì không tin (thực tài), «vô trương, bất tín», mà nhân cách giáo lý Việt tộc của tổ tiên ta chỉ bảo con cháu kỹ lưỡng hơn: «so ra mới biết ngắn dài». Kiến thức là một hệ thống hợp lý, tri thức là một cấu trúc chuẩn lý, buôn lậu kiến thức hoặc đánh bạc lận với tri thức thì rất dễ bị lột mặt nạ. Vì học thuật không như trong chính giới: lấy mỵ dân để lừa thiên hạ, lấy đạo đức giả để «buôn thần bán thánh». Kiến thức nhận diện ra kiến thức, tri thức nhận diện ra tri thức, vì vậy kiến thức đúng, tri thức thực, giữ vai chánh kiến tồn tại dài lâu, để «vạch mặt chỉ tên» các đồ giả là: mạo thức, tạp thức, tà thức… kiến thức đúng không cần được chứng thị bằng học vị, tri thức thực không cần chứng thực của học hàm, vì đúng và trúng đã là lực rồi, nên ta mới đặt tên cho nó là học lực. Lực có trong thuyết minh là chứng minh, nơi mà lý luận song hành cùng lập luận, trong phân tích đã có giải thích. Kiến thức đúng, tri thức thực, tạo dựng nên cấu trúc của lý trí, làm rõ vị thế của trí thức; và trí thức không phải là bằng cấp, có những kẻ khoe mình có nhiều bằng cấp nhưng suốt đời không được xem là trí thức. Thống hợp từ kiến thức qua tri thức được rèn luyện qua lý luận và lập luận, là nơi mà lý trí không những tổ chức được: tin tức, dữ kiện, chứng từ… mà còn là nơi sáng lập ra diễn luận, sáng tác ra giải luận, sáng tạo luôn ra cách giải quyết các ẩn số của cuộc sống. Sáng tác trong văn học cũng như sáng tạo trong nghệ thuật có thể là những công trình của tâm lực, còn sáng tạo từ khoa học kỹ thuật tới khoa học xã hội và nhân văn là quá trình của trí lực. Trí lực chỉ tin cậy vào học lực, chớ không gửi niềm tin của mình vào học vị hoặc học hàm. Một số lãnh đạo của ĐCSVN khoe khoang trong lý lịch hồ sơ họ là: tiến sĩ, thì đây chỉ là bày biện, mà thực chất là ta nên làm theo lời dặn của người thầy của chúng ta là Nguyễn Du: «phải dò cho tới tận nguồn lạch sông», vì thái độ của cụ Tiên Điền, của sư phụ Tố Như của chúng ta rất đứng đắn trong học thuật qua điều tra kỹ càng, cặn kẽ, qua truy luận tới nơi tới chốn. Chúng ta phải kiểm lại quá trình học tập của đám lãnh đạo cũng như chất lượng giáo khoa nơi họ học, xem kỹ thành phần hội đồng giám khảo bảo vệ luận án, nhất là đọc công trình nghiên cứu trong luận án tiến sĩ của họ, cùng lúc đọc các báo cáo phản biện và báo cáo chính thức của ban giám khảo sau khi bảo vệ. Tất cả thực hư là đây, học thật hay học giả, tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy; và nếu chỉ có luận án tiến sĩ mà không có các công trình nghiên cứu khác được công bố qua các tập san, tạp chí, các tác phẩm nghiên cứu; qua các hội thảo, hội luận, tức là qua giám định của cộng đồng khoa học quốc gia và quốc tế thì loại luận án tiến sĩ này rất đáng nghi ngờ! Vì, chuyện «mua bằng, bán chức» đang đầy dẫy, đang sa đọa hóa giáo dục, lột trần bằng cấp giả là làm được chuyện lột mặt nạ nhân diện giả, nhân cách hão, đang đầu độc cả hệ thống giáo dục của Việt Nam hiện nay. Trong khoa học cũng như chính trị, trong văn hóa cũng như trong xã hội, vai trò của phản biện (điều tra lại, kiểm chứng lại) là nội công của kiến thức thật, nội lực của tri thức đúng! Ngược lại với độc tài và bất tài (thường là sinh đôi) luồn lách, chui rúc để truy diệt nhân trí, hạ thấp nhân tri, làm băng hoại nhân lý.
Popper phân tích là một giáo dục chân chính luôn được hỗ trợ hiệu quả của giáo khoa được chế tác từ các tư duy khoa học luận (lấy khám phá khoa học củng cố cấu trúc khoa học, lấy thành quả học thuật để đẩy xa tri thức học thuật), thường được đúc kết trong một giáo trình qua bốn quy trình sau đây: quy trình khám phá, quy trình chứng minh, quy trình giải thích, quy trình truyền đạt. Thực hư, vàng thau, chóng chầy đều phải «lộ chân tướng» trong chuyện thử đá vàng của bốn quy trình này. Vì sao? Vì bằng cấp giả thường dựa vào giáo dục giả, giáo dục thật phải bảo vệ kiến thức bền, giáo khoa vững, mà hiệu quả thấy được trong đời sống của tri thức, mà tiến bộ tới từ khoa học kỹ thuật, từ văn hóa nghệ thuật, từ cải cách nhân trí đến cải tiến nhân sinh. Phải tìm mọi cách để bảo vệ tri thức trong giáo dục vì nhân trí! Tri thức hiện diện trong cuộc sống qua cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật, tới từ năng lực của lý trí biến kiến thức thành thực hành cụ thể, sự học tập làm nên sự hiểu biết, sự hiểu biết làm ra sự tự phát triển tư duy, trong đó chủ thể của kiến thức luôn chuyển hóa theo hướng đi lên của cái tư duy tự lý giải trước các câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Trong cái biết đã có cái hiểu, cái diễn, cái giải, cái chứng, cái suy, cái luận, như vậy thì tri thức là: nhìn để thấy, thấy để hiểu, hiểu để nắm, nắm để giữ, lấy cái thông làm vốn cho cái thạo. Vũ trụ quan của kiến thức khoa học gầy dựng nên thế giới quan của tri thức học thuật, cả hai vừa là nền móng, vừa là tường mái cho nhân sinh quan của lý trí. Lý trí đòi hỏi lý giải một sự kiện nhân sinh bằng phương pháp luận đã được thể nghiệm khách quan trong khoa học, đi song hành cùng với ý thức về đạo lý của nhân tính, đạo lý này làm câu nối cho các kinh nghiệm trong quá khứ để dựng lên các dự phóng cho tương lai. Nếu tri thức biết dùng hiện tại để phán xét quá khứ, để làm đẹp cho tương lai, thì tri thức cũng biết tập hợp quá khứ và tương lai trong giải trình, trong diễn luận. Tổ tiên Việt tộc lập lý lịch của tri thức bằng nhân cách «nhìn xa, trông rộng», giúp con cháu nhận diện ra nhân diện những người có trí tuệ, và khuyên con cháu tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi đưa họ lên làm lãnh đạo để dìu dắt nhân sinh, ông bà ta gọi người có trí tuệ lãnh đạo là người khôn: «người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu».

Nhân Cách Tạo Nhân Dạng (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này