Bước vào thế kỷ 21, chúng ta thấy cơ chế dân chủ (trên thế giới nói chung và Mỹ nói riêng) đang bị đe doạ trầm trọng. Đặc biệt tại Mỹ với thể chế Liên Bang, cơ chế tam quyền phân lập và sinh hoạt chính trị lưỡng đảng tưởng chừng như khuôn mẫu lý tưởng đã cho thấy những khuyết điểm từ những viện nghiên cứu, tổ chức vô vụ lợi, các khuynh hướng tôn giáo, các thế lực tư bản, đại công ty, kỹ nghệ đã tạo những thế lực vô hình ảnh hưởng đến các hoạt động của chính quyền đã làm rạn nứt các nguyên tắc, nề nếp được sắp đặt bởi những người sáng lập nước Mỹ. Các nhà học giả, triết gia đang đi tìm một sự cải cách nền dân chủ cho nhân loại. Tuy có những điểm khá gần với Duy Dân (Lý Đông A) nhưng vẫn còn khá xa so với những gì Lý Đông A (LĐA) đề nghị 80 năm trước. Trong cơn lốc hỗn loạn của thế giới đều trông chờ vào nước Mỹ góp phần giải quyết thì nay chính nước Mỹ bước vào cơn lốc dân chủ. Theo cách nhìn của LĐA thì tương quan “Nhiên-Nhân-Dân” hay là “tự nhiên-con người-xã hội” đã mất sự tương quan cần thiết về con người và cơ chế xã hội trong hoàn cảnh thiên nhiên thay đổi.
Con người
Khi tiến bộ kỹ thuật giúp con người giao thông, thông tin, trao đổi hàng hóa nhanh hơn thì những người dân đa số đã không theo kịp đà tiến trong các lãnh vực văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế…. Ngay cả luật pháp cũng không theo kịp để kiểm soát sự thao túng thị trường. Các nước nghèo càng cố chạy theo các nước giàu thì lại càng rơi vào tham nhũng, hỗn loạn dẫn đến độc tài. Trong khi các nước giàu cũng rơi vào hỗn loạn khi giới tư bản khống chế các cơ cấu dân chủ: giới truyền thông, quốc hội, các viện nghiên cứu, đại học, các tổ chức vô vụ lợi, khai thác tài nguyên tới mức cạn kiệt, gây ô nhiễm dẫn đến xung đột giữa phe bảo vệ môi sinh và giới lao động cần việc làm. Điều kiện căn bản sinh sống của con người vẫn như cũ nhưng nếp sống văn minh khiến con người đòi hỏi nhiều hơn trong khi dân số tăng và tài nguyên cạn kiệt dần. Tôn giáo muốn tăng thêm tín đồ. Chính trị muốn thêm quyền lực trên số dân cai trị. Lòng tham khiến mọi thủ đoạn được sử dụng.
Nước Mỹ
Về lịch sử: là quốc gia dân chủ, tụ họp nhiều sắc dân, tôn giáo, khuynh hướng chính trị và có tiềm năng ảnh hưởng đến các biến cố thế giới. Cơ cấu liên bang Mỹ được coi là bền vững qua sự góp sức của các nhà lập quốc rút kinh nghiệm từ Âu Châu. Nước Mỹ đã góp phần cứu thế giới qua hai cuộc chiến và lãnh đạo khối tự do chống lại khối cộng sản trong chiến tranh lạnh 1947-1991. Nhưng chính tại Mỹ, cuộc tranh đấu cho dân chủ vẫn tiếp diễn: phụ nữ được quyền bỏ phiếu 1920. Người da màu được quyền công dân sau nội chiến 1861-1865 đã phải chờ tới 1965 mới được quyền bỏ phiếu. Người di dân Á Châu được quyền công dân 1952. Những điều trên cho thấy sự kỳ thị tại Mỹ ảnh hưởng nặng nề trong sinh hoạt xã hội, chính trị và tất nhiên kinh tế cho dù trên mặt văn hóa giáo dục và tôn giáo đã cổ võ rất nhiều về bình đẳng.
Về địa lý: nước Mỹ trải rộng từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Hai vùng duyên hải dựa lưng vào hai dãy núi Rocky phía Tây và Appalachian phía Đông, ở giữa là bình nguyên. Khác biệt địa lý đã tạo nên các tiểu bang Đỏ (đảng Cộng Hòa) trong khi hai bên bờ đại dương được coi như các tiểu bang Xanh (đảng Dân Chủ). Sau thế chiến, dân Mỹ coi như công dân cường quốc, hãnh diện đứng đầu thế giới về kinh tế và quân sự, bảo vệ hòa bình thế giới và thịnh vượng. Sau cuộc chiến tại Việt Nam, tâm lý người dân Mỹ thay đổi khi giới lãnh đạo Mỹ thay đổi từ Kennedy đến Nixon, Carter đến Reagan.
Người dân: là quốc gia của những người di dân. Các lớp người di dân hợp pháp được du nhập vào Mỹ hàng năm với con số hạn chế. Trong cùng thời gian đó, các người di dân bất hợp pháp vẫn đến qua biên giới. Khi kinh tế Mỹ phát triển thuận lợi thì không ai để ý đến chuyện di dân nhưng khi kinh tế suy thoái thì các nhà chính trị lôi người dân ra làm vật hy sinh: di dân là gánh nặng, phá rối xã hội, gây tội ác…. Người dân Mỹ quen hưởng thụ, bình yên và muốn tiếp tục như vậy (khuynh hướng bảo thủ) nên thường có khuynh hướng chống di dân. Tuy rằng nền kinh tế Mỹ dựa trên giới tiểu thương (small business) nhưng chính giới tiểu thương đã dựa vào người di dân để phát triển vì đó là nguồn nhân công sẵn sàng làm việc với giả rẻ mạt mà người Mỹ không muốn làm. Phải chăng nhân quyền của công dân Mỹ khác nhân quyền của người di dân? Chúng ta đều biết nạn kỳ thị tại Mỹ khi người da trắng nghĩ họ “có quyền” hơn người da màu. Vậy khi nước Mỹ kêu gọi nhân quyền cho thế giới thì đó là “cái gì”?
Về tôn giáo: đa số dân Mỹ theo Tin Lành hay Thiên Chúa Giáo bắt nguồn tứ Âu Châu. Một số nhỏ theo Do Thái Giáo, Hồi Giáo. Đa số các nhà thờ có mặt khắp các thành phố Mỹ có khuynh hướng giúp người di dân, thiểu số và thường bao bọc, che chở sự đàn áp của chính quyền. Vậy tín đồ của họ sẽ ủng hộ hay chống đối người di dân? Chúng ta sẽ thấy sự mâu thuẫn xảy ra khắp nơi mọi lãnh vực, cấp độ và hậu quả ảnh hưởng lẫn nhau khiến sự tìm kiếm giải pháp càng khó khăn khi mọi người đánh mất đầu mối sự việc.
Niềm tin vào tôn giáo hay đảng (khuynh hướng) chính trị khiến người dân “tin” theo “lãnh đạo” và quay ra chống lẫn nhau thay vì trực tiếp thảo luận để quy trách nhiệm về tầng lớp “lãnh đạo”. Người (lãnh đạo) tốt thì không muốn đụng tới kẻ xấu. Trong khi kẻ xấu thì cấu kết với nhau để bảo vệ ngôi vị và thao túng cơ cấu. Người dân Mỹ muốn giữ niềm tin và không muốn chấp nhận sai lầm và chỉ muốn tiến tới (move forward) bỏ rắc rối sau lưng mà quên rằng “nó” sẽ tái diễn trong tương lai. Khi các nhà truyền đạo ngăn cản sự tham dự của phụ nữ trong sinh hoạt xã hội, tôn giáo, chính trị… thì việc đối xử với người di dân, nghèo, bệnh tật phải chăng chỉ là trò hề nhân danh Thượng Đế để dụ dỗ tín đồ khi chính bản thân họ vi phạm những lời dạy từ kinh điển.
Về chính trị: cơ chế liên bang và hiến pháp phân biệt giáo quyền và chính quyền nhưng lại cùng tin vào Thượng Đế (In the God we trust). Viên chức chính quyền khi nhậm chức phải đặt tay trên Thánh kinh và tuyên thệ phục vụ tổ quốc. Khi các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo trong sạch thì không sao nhưng khi người dân nhắm mắt chọn kẻ xấu thì mọi chuyện nổ tung. Khi luật cho phép tự do tôn giáo có nghĩa là nhiều tôn giáo được truyền đạo tại Mỹ. Vậy thì nếu các chính trị gia hay ông Tòa dựa vào một tôn giáo A để giải thích hành động X của mình thì các tôn giáo khác sẽ nghĩ sao? Đến khi hành động Y được giải thích theo tôn giáo B thì xã hội sẽ như thế nào? Các chính trị gia (hay ông tòa) có thể nói Thượng đế A hay B đúng?
Dân Chủ Đáy Tầng (P2)
Trần Công Lân
Tháng 10 năm 2024 (Việt lịch 4903)