Nhân thuật hay nhân đạo
Trong giờ hấp hối của Trần Hưng Đạo, vua Trần Anh Tông rất lo, lộ ra lời nói là: “Nếu tướng quân qua đời mà bọn giặc Tầu phương bắc trở lại đánh chiếm nước ta thì phải làm sao đây?”, Hưng Đạo Vương, trọn ý, ít lời, nhưng luận thuyết rất rõ ràng qua một mô hình cứng cáp, đúng với sự thật, trúng với chân lý, đủ với lẽ phải, trong đó nhân đạo dìu dắt nhân thuật: “Cả Nước một lòng…rễ sâu, gốc vững”. Nhân thuật, nếu là nghệ thuật dùng người, thì Việt tộc xem nhân thuật như chất keo sơn của dân-quân, làm được chuyện dời non lấp biển chống ngoại xâm, ba lần đánh bại quân Nguyên. Nhưng trong truyền thống chính trị Tầu thì nhân thuật trước hết được (hoặc bị) hiểu là: cách bày mưu đặt kế, trong đó con người chỉ là các con cờ. Hai nhân vật mang tên và mang tiếng mưu thần chước quỷ là Tào Tháo và Tư Mã Ý có một cuộc đối thoại, bắt đầu bằng câu hỏi của Tào Tháo: “Minh sư có biết tại sao bàn chân con người trắng hơn mặt người và bàn tay người không?”, Tư Mã Ý là quân sư nhưng luôn coi tướng công Tào Tháo là thầy của mình về mưu lược, trả lời: “Tại hạ không biết”, Tào Tháo dạy: “Vì bàn chân con người được giấu rất kỹ!”. Tâm tư phải giấu kín, thì tâm địa phải giấu kỹ! Tư Mã Ý tâm niệm bài học này, biến chuyện giấu kỹ thành chuyện giấu lâu, trong suốt quá trình phò nhà Ngụy, và chỉ một ngày với thời cơ thuận tiện khi triều đình Ngụy đi ra khỏi hoàng thành để lễ cúng, thì hắn đã tổ chức đảo chánh rồi cướp ngôi, giành quyền. Khi Tào Cẩn, con cháu dòng chính thống của Tào Tháo bị Tư Mã Ý truy sát, thì Tào Cẩn có thốt ra một câu với Tư Mã Ý: «Tư Mã Ý, ngươi chỉ cần một ngày mà xóa được bốn đời nhà Ngụy!» Tư Mã Ý nguội lạnh trả lời về mô hình nhân thuật giấu lâu-giấu kỹ của mình: “Trong đời, ta tung kiếm chỉ một lần, nhưng ta đã mài kiếm cho thật bén từ bao năm nay”. Trong cái khác biệt giữa nhân Việt và nhân Trung, ta rất khác Tầu, nhưng muốn đối trọng, đối kháng, đối đầu với Tầu, và thắng Tầu thì ta phải biết:
*Các khu vực trắng của não bộ đầy ý đồ, đang được chúng giấu kín, như dã tâm luôn được vùi, đóng, che, đậy chờ cơ hội để thành một sự thật tàn nhẫn, mà mục đích là để diệt tận gốc rễ đối phương.
*Giấu kín tức là giấu lâu và giấu kỹ, dùng phản công qua nhẫn tâm để thành công trong đột xuất.
*Giấu kín-giấu lâu-giấu kỹ, đột xuất tạo bất ngờ, khiến đối thủ không kịp trở tay, mất thời gian cần thiết, mất cả không gian căn bản của mình và sẽ không còn chỗ dựa trong chính địa bàn của mình.
Để bị lấn đất, chiếm đảo, đoạt biển cùng lúc bị ức chế trầm trọng hai nguồn sông chính của đất nước có thượng nguồn là Trung Quốc: sông Hồng miền Bắc và sông Cửu Long miền Nam, lại bán qua «ủy quyền» từ Tây Nguyên tới Hà Tĩnh, một không gian rất dễ cắt đôi đất nước, sai lầm đã thành lỗi, và khi «Tầu (trắng chân) ra tay diệt Việt tộc», thì lỗi sẽ thành tội! Các lãnh đạo ĐCSVN hiện nay phải ra khỏi «vòng vây trắng» này, đang được Tầu giấu kín-giấu lâu giấu kỹ! Suy ngẫm sâu hơn nữa các thế hệ lãnh đạo ĐCSVN từ khi lập đảng 1930 cho tới nay đã gần một thế kỷ, và khi ta áp dụng xã hội học chính trị để phân định các thành phần lãnh đạo, ta nên có phương pháp luận phân loại các lãnh đạo (rất khác nhau) qua bốn thế hệ sau đây:
1. Thế hệ n°1, tham vọng quyền lực để phục vụ cách mạng (Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng) lấy nội dung cách mạng cộng sản làm động lực cho giải phóng dân tộc.
2. Thế hệ n°2, chiếm lĩnh quyền lực để phục vụ chiến tranh (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ) lấy nội dung chiến tranh để phục dịch cho độc đảng trong chuyên chế tuyệt đối.
3. Thế hệ n°3, nương tựa quyền lực để cứu nguy kinh tế (Võ Văn Kiệt) lấy nội dung cởi trói miền Nam để tương đối hóa quan liêu miền Bắc.
4. Thế hệ n°4, cuồng vọng chuyên quyền để tổ chức tham nhũng, từ đầu thế kỷ này, sau 2000, lấy phân nhóm theo các «hệ quyền lợi tiểu triều» từ Trung Ương Đảng tới Bộ Chính Trị, củng cố hệ thống công an (bạo nô) để toàn trị xã hội.
Các thế hệ này có những đặc điểm tổ chức chung chung của một đảng Cộng Sản từ khi có cách mạng Cộng Sản tại Liên Xô và Trung Cộng: bạo động với xã hội, bạo hành với dân chúng, bạo lực với nhân quyền, bạo đảng với dân chủ. Trong đó nguồn máy đảng nghiến lương tri, cơ chế đảng nuốt lương tâm, và không quên ngày đêm hủy diệt các lực lượng lương thiện của xã hội dân sự. Các nội dung này có thể kiểm chứng qua đời sống hằng ngày của xã hội, dân tộc, đất nước hiện nay, thí dụ rõ nhất là tư lợi tài chính của một số rất ít lãnh đạo khi đã «hòa điệu» cùng phản xạ tập thể của ĐCSVN phải dựa vào ĐCSTQ-đảng Cộng Sản Trung Quốc, để bảo trợ được sống còn. Từ đó tăng cường chế độ công an trị của ĐCSVN đã dẫn tới bi kịch mà ta có thể gọi tắc là 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh, cũng cùng ngữ văn 3C trong tiếng pháp: contexte-conjoncture-circonstance) để giải thích hành vi mà hiện nay dân Việt gọi là: «bán nước cho Tầu» của ĐCSVN, trước số phận chỉ mành treo chuông của Việt tộc. Muốn hiểu diễn luận rồi giải luận 3C, chúng ta phải vào nội chất của tư lợi cá nhân, luôn lén lút tạo bè nhóm để thao túng tập thể lãnh đạo để sau đó dùng tập thể này kích động một đảng cầm quyền trong quá trình khống chế xã hội, có thể đưa dân tộc của một đất nước vào họa bị ngoại xâm. Cụ thể là trong đó tư lợi tuyệt đối của vài lãnh đạo tối cao sẵn sàng «bán nước», rồi «giật dây» bằng tính tùy thuộc của bè nhóm và vây cánh đang nắm nguồn máy lãnh đạo, từ đó dùng bè nhóm vây cánh này để tạo ra (thảm cảnh và bi kịch) vô trách nhiệm toàn diện của một đảng phái. Phạm trù vô trách nhiệm toàn diện không những bị cấm bàn bạc trong hệ thống đảng, mà cả trong pháp trường của tư pháp, lẫn trong hiện trường của Quốc Hội, bị chuyên chính của ĐCSVN áp chế. «Nội chất» của tư lợi cá nhân tạo ra «tội chất» vô trách nhiệm của tập thể đảng, bắt các chuyên gia của khoa học xã hội và nhân văn khi phân tích quá trình từ «tha hóa» của ĐCSVN qua «họa hóa» Việt tộc, phải đưa vào phân tích và giải thích của ta: «nội tính» của tư lợi bè nhóm nơi mà sự ích kỷ của mỗi cá nhân lãnh đạo không những ở trên quyền lợi tập thể, ở trên quyền vị cộng đồng, mà còn ở trên luôn cả vận mệnh của một dân tộc. Cụ thể là khoa học luận của khoa học xã hội và nhân văn không cho phép ta u mê khẳng định 3 chuyện không đúng sự thật: «tất cả người Việt đều yêu nước», «lãnh đạo thì yêu nước hơn thường dân», «lãnh đạo tối cao thì không bán nước»; tất cả 3 điều này đều có thể sai trong khoa học trong xã hội và nhân văn, nó lại càng sai trong lịch sử của Việt tộc và tiếp tục sai cho bất cứ ai tuyên bố các loại câu này. Vì trong dân tộc Việt đã có: Trần Ích Tắc, Kiều Công Tiễn, Lê Chiêu Thống… và trong ĐCSVN đã có Hoàng Văn Hoan, và sắp tới sẽ có các Hoàng Văn Hoan mới. Xã hội dân sự hiện nay vẫn là nơi cụ thể nhất để bàn bạc, đối thoại, lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận về hiện tượng trầm trọng này qua các mạng xã hội sử dụng hệ truyền thông vừa đại chúng, vừa toàn cầu hóa; và xã hội dân sự qua các mạng truyền thông sẽ vừa là cơ may và cơ chế (tạm thời nhưng dân chủ nhất) để bảo vệ vận mệnh của một dân tộc. Chuyện này thấy rất rõ trong thảm họa môi trường do Formosa gây ra tại miền Trung năm nay: dân tình miền Trung khốn đốn trong sinh nhai mà phải chờ gần ba tháng mới có thông báo kết luận của chính quyền mà thủ phạm thì cả nước đã biết là: Formosa. Và chính quyền độc đảng này nhận «bồi thường không xét xử»: 500 triệu USD, lại còn tuyên bố với loại ngữ pháp ngụy biện (phản lý vô luận) với bọn tội phạm môi sinh Formosa là: «đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người quay lại», trong khi đó môi sinh biển của đất nước không biết bao giờ mới khôi phục lại bình thường. Vấn đề không phải là quay đi hay quay lại, mà hệ giải luận chính là phải: xử lại! Xử cho công minh, xử bằng liêm sỉ của dân tộc quyết tâm bảo vệ đất nước mình: những lãnh đạo nào đã nhận hối lộ ngay từ thượng nguồn và tiếp tục tham ô cho tới bây giờ, bao che cho các tội phạm môi sinh, họ là ai? Mà đã ký những hợp đồng hơn nửa thế kỷ cho giặc? Bạo đảng trong tội phạm đã sẵn sàng làm bạo nô cho giặc khi đàn áp các công dân yêu nước vì Hoàng Sa, Trường Sa, vì môi trường? Nếu mang ra xử thì sẽ là: hình sự của hình sự, vì nó là tội ác của tội ác. Trong khi đó, nếu có ô nhiễm môi trường như vậy trong một nước dân chủ, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Có ít nhất là 10 chuyện tuần tự xảy đến:
1. Bộ trưởng môi trường từ chức kèm theo cải tổ sâu đậm chính phủ đương nhiệm;
2. Thủ tướng nhận lỗi và xin lỗi cùng lúc giao cho tư pháp tổ chức mọi quy trình của pháp luật mà không chừa một kẻ lãnh đạo nào;
3. Thông tin thường xuyên qua báo chí, truyền thanh, truyền hình tức là bám sát diễn biến của sự cố;
4. Đào rộng, đào sâu mức độ điều tra không những của các chuyên gia mà cả của các ký giả chuyên môn trên đề tài của sự cố;
5. Chính phủ có báo cáo hằng ngày qua thông báo và họp báo trong quá trình quản lý sự cố;
6. Các kênh truyền thông tạo các điều kiện dân chủ tối đa cho dân chúng địa phương là nạn nhân trực tiếp của sự cố phát biểu thường trực qua thông tin, tin tức hàng ngày;
7. Các hội đoàn từ thiện và nhân đạo không những được tự do hoạt động mà còn được hỗ trợ bởi chính phủ trung ương và chính quyền địa phương để cứu trợ các nạn nhân;
8. Các báo cáo phản biện của khoa học được trợ lực bởi xã hội dân sự, để có chỗ đứng trung tâm trong các cách giải quyết của chính phủ.
9. Các hội thảo liên tục được tổ chức và công bố các thẩm định khoa học mà chính quyền từ trung ương tới địa phương: phải biết, phải tham dự, phải nghe và phải có chính sách kịp thời;
10. Chính phủ, hàng ngày, hàng tuần vừa phải giải trình các biện pháp thích ứng, vừa phải lắng nghe, trả lời và tìm giải pháp hiệu quả trước các phản biện của xã hội dân sự cũng như của giới khoa học, trí thức, chuyên gia…
Các quá trình này vừa bị bưng bít, vừa bị bóp nghẹt, vừa bị đàn áp, vừa bị vu khống, bởi bạo đảng bằng bạo hành của công an, và xảo tin của các hệ truyền thông chính thống của ĐCSVN trong những ngày tháng qua.
Nhân Việt Nghiệm Nhân Trung (P7)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).