Nhân Việt Nghiệm Nhân Trung (P5)

Hằng số nước đôi
«Ngôn hành bất nhất», lời nói không đi đôi với hành động, có thể sinh ra từ một tâm lý là thiếu tự tin nên thiếu tự chủ trong phát biểu, bỏ quyết đoán chọn «ba phải», nhưng trong phản xạ chính trị của các lãnh đạo Tầu thì ngược lại nó tới từ: hằng số nước đôi, lúc thì lời nói phản hành động, lúc thì hành động ngược lời nói. Đây không còn là chuyện thiếu tự tin vắng quyết đoán, mà là con tính xảo để lừa, lận để gian, ý định xấu chế ra ý đồ ác, sẵn sàng bội tín, chuẩn bị bội nghĩa, vì bội tình đã thành động cơ cho mánh khóe. Cũng trong Tam Quốc, phản xạ «nước đôi» là động cơ cho mọi lời nói láo, mọi câu nói sạo, mà ta có thể gọi là «nước đôi điểu» đây dĩ nhiên là hằng số của bọn bị coi là xấu: Tào Tháo và Tư Mã Ý; nhưng lạ là nó cũng là hằng số của nhóm được xem là tốt: Lưu Bị và Khổng Minh, vì vậy nên nó luôn là hằng số của các phái lúc tốt, lúc xấu như Tôn Quyền và Công Cẩn. Khi tất cả các nhóm này chủ trương ba phương sách cụ thể xảo để lừa, lận để gian, trong mọi tình huống: «yếu không nói yếu», «lì không nhận lỗi», «biết sai lén sửa sai, không nhận sai». Đối với họ, «sống với sói hổ, phải ác như sói hổ” là phương châm của tất cả đám này, ở đây ranh giới giữa thiện và ác không những bị xóa bỏ, mà phản xạ «lừa thầy phản bạn» được chấp nhận, «buôn thần, bán thánh» được tiếp nhận, «ném đá giấu tay» được tiếp đón, «ngậm máu phun người» được tiếp trao, vì «khẩu phật, tâm xà» đã thành tiếp trợ. Hằng số nước đôi còn được Mao Trạch Đông biến thành hằng số nước ba: “Đánh vẫn phải đánh, đàm vẫn phải đàm, hòa vẫn phải hòa”, khi hắn giáo dưỡng đám đàn em. Cũng chính Mao của tà luận đã hỏi thẳng Lê Duẩn giữa chiến tranh Việt Nam, những năm 1960 là: «…dân Lào, dân Campuchia bao nhiêu người? Đất Đông Nam Á ra sao? Chóng chầy gì thì chúng tôi cũng đưa dân chúng tôi xuống đó! »
Khi chế độ chuyên chính rồi chuyên chế được áp đặt qua độc đảng, độc tài, độc quyền, độc quyết thì càng làm tồi bại hóa các đạo lý của xã hội, vì nó bị đốn tận gốc rễ các luân lý dân tộc.Ở đây cuồng vọng quyền lực sẽ sánh đôi cùng tham vọng tham nhũng quyền hạn, để thành tham ô bằng bạo sách, làm chỗ dựa cho bạo hành qua công an, bạo lực qua quân đội, vì tất cả được lý luận bằng bạo quyền, tại đây đồng bào Việt Nam và nhân dân Trung Quốc chịu cùng một số phận: cái ác của bạo chúa phong kiến giờ đây được thay thế một cách xảo trá bởi bạo đảng độc quyền. Chuyên chính, chuyên chế, bám vào độc đảng, độc tài, độc quyền, độc quyết để tự cho phép bạo sách, bạo hành, bạo lực, được kích thích bằng bạo quyền vừa tạo ra bất công trong xã hội, vừa sinh ra vô cảm trong luân lý quốc gia, trong đạo lý dân chúng. Các nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn từ một thế kỷ nay về chế độ cộng sản cho ta thấy rất rõ ít nhất là ba hậu quả:
1. Dưới chế độ cộng sản mang tiếng là đại diện cho giai cấp công nhân, nhưng chính giai cấp này bị bóc lột tồi tệ nhất, mà không được luật pháp hay công đoàn che chở.
2. Dưới chế độ cộng sản, công dân bị cô đơn, cô lập, cô thế nhất trước cơ chế toàn trị mà độc đảng vừa quyết, vừa xét, vừa xử, vừa giam, vừa giết.
3. Dưới chế độ cộng sản, người dân bị căng thẳng tâm thần nhất qua bưng bít thông tin rồi đe dọa qua tuyên truyền, rình rập đồng nghiệp rồi tố cáo láng giềng, đàn áp dân chủ rồi tù đày dân sinh, giam cầm dân chủ và tra tấn nhân quyền….
Lời hứa (hão) thuở nào về thế giới đại đồng của chủ nghĩa cộng sản, đã nhanh chóng chuyển qua các thủ sách: định chế hóa đất đai để cướp giật, mà giai đoạn đầu là lấy đất dân biến thành đất chung, mà nhà nước quản lý giành quản lý, giai đoạn sau là cướp đất, cướp của trắng trợn qua tham nhũng, hối lộ. Lịch sử của nhân quyền là quá trình “bỏ ác theo thiện”, lịch sử của các chế độ Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Trung Quốc, có hai đàn em là Bắc Triều Tiên và Việt Nam lại là quá trình “bỏ Thiện theo Ác “. Lịch sử của dân chủ của nhân loại văn minh là quá trình «gạt độc đảng, chọn đa đảng», còn lịch sử của các chế độ Cộng Sản, mà chỉ còn lại bốn chế độ quái lạ: Cuba, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam lại là quá trình «bám độc quyền để diệt đa nguyên». Đây là thực chất rất khác nhau giữa các chế độ «vì dân» và các chế độ «chống dân» ; «vì dân» thì «cởi mở» để «mở cửa», «chống dân» thì «đóng cửa» để «chuyên quyền ». «Vì dân» thì «mở cửa» để đón nhân tri, nhân phẩm, nhân đạo, tức là tài năng và đức độ của nhân sinh, nhân tình, nhân loại; còn «chống dân» thì ngược lại: diệt nhân tài để hủy nhân trí. Trước mắt Phương Tây của dân chủ và nhân quyền, thì ba chế độ còn sót lại nằm ngay Á Châu: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, nói lên ít nhất ba «ẩn số bất nhân»: lấy độc đảng ép nhân tính, lấy độc quyền xiết nhân trí, lấy độc quyết bóp nhân phẩm. Nhân đây, chúng ta sẽ phân tích một chuyện khác sâu xa hơn trong cách hình thành Khổng giáo và Lão giáo tại Trung Quốc, rồi tìm hiểu cách tiếp cận Khổng, Lão tại Việt Nam, trong đó thượng nguồn của Khổng học là đạo đức học xoay quanh quyền lực học; ngược lại tại Âu Châu nơi sinh ra nhân quyền và dân chủ, thì ngược lại: quyền lực phục vụ cho tự do học.
Cũng vậy, Lão học là nhân học thời thế xoay quanh một trụ quyền lực trung tâm, một loại quyền lực chống đa nguyên, diệt dân chủ, loại nhân quyền, vì Lão không có một niềm tin gì về: tự do của chủ thể, là nguồn cội của nhân quyền trước mọi quyền lực. Cho nên, vô tình hay cố tình, Khổng và Lão đã “quan trường hóa” nhân sinh, “quan liêu hóa” nhân tính, “quan lại hóa” nhân trí. Do vậy, Nho học một phần có tội đối với người Trung Quốc, mà người Việt nên nghiêm cẩn, khi hấp thụ văn hóa Tầu. Diễn luận này có tầm thiết yếu của nó, đây sẽ là cơ sở của lý luận, và cũng là định đề để thoát Trung-tránh Hoa không những trước bọn Tầu tặc của đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay; mà còn để bỏ Trung-gạt Hoa một cách có lý trí, có lập luận mà Khổng, Lão đã ảnh hưởng thật sâu đậm vào cổ sử, cổ văn của Việt tộc từ bao lâu nay! Vậy thì tổng luận của ta là gì? Là: “quan trường hóa”, “quan liêu hóa”, “quan lại hóa” sẽ sinh ra quân sự hóa đất nước, công an hóa xã hội, binh pháp hóa chính trị, làm căn cớ cho bạo quyền dụng bạo lực, làm chỗ dựa cho bạo đảng vận bạo hành. Đây là một tổng kết cần thiết để cho chúng ta thấy là động cơ của quân sự hóa, công an hóa, binh pháp hóa chỉ có thể là: bạo động. Từ tổng luận qua tổng kết để tới tổng quan: Việt tộc phải thoát ra khỏi vòng vây vô nhân này mà tên gọi và số kiếp của nó là: độc đảng, độc tài, độc quyền, độc quyết, mà ý đồ và ma lực của nó: bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành qua bạo đảng.
Trở lại cổ sử Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc có thể ca ngợi sự nghiệp của Gia Cát Lượng, nhưng giới chuyên gia về Trung Quốc học, ngày càng thấy rõ là ông không có minh tâm dũng chí, ông dùng người không liêm chính, nhân thuật của ông không có nhân đạo cũng chẳng có luôn nhân phẩm, có lúc ông còn là kẻ chuyên quyền ở thế vô nhân (tính). Tôn thờ ông vô điều kiện, thì giáo dục Tầu có «ẩn số», lương tri Tầu có «biến số», và nếu Tầu mà lấy gương của Gia Cát Lượng để đối nhân, xử thế với nhân loại, thì liêm sỉ Tầu có «tà số». Mưu lược gia như Gia Cát Lượng không có hằng số của nhân tính, cũng như Trung Quốc có tư tưởng gia như Khổng, Lão, Mạnh, Trang, dạy cách làm người hợp với đạo trời, kêu gọi nhân sinh lấy thiên mệnh để phục tùng thiên tử, chớ Trung Quốc không có triết học biết đào sâu mâu thuẫn giữa tự do và quyền lực trong chính trị học, để chế tác ra chủ thể nhân tính lấy dân chủ để bảo vệ nhân quyền. Phải đi thêm bước nữa trong lý luận để tìm ra cái khác biệt giữa mưu lược gia và chính trị gia, vì khi mưu lược phải dùng mánh khóe chỉ để lừa đảo, thì chính trị gia có nội công nhân tính, có nội lực nhân bản sẽ luôn có nhân sinh quan sâu hơn, có thế giới quan rộng hơn, có vũ trụ quan cao hơn là mánh khoé, chỉ biết lừa để thắng. Đây cũng là bi kịch của Tầu hiện nay, là nước lớn nhưng không có phong cách đại quốc như Mỹ không cần trộm, cắp, cướp, giựt đất, biển, đảo của láng giềng mà tạo ảnh hưởng không lãnh thổ, không qua biên giới mà qua tự do, dân chủ kiểu Mỹ, đó cũng là phong cách văn minh của Âu Châu khi dụng nhân quyền, làm ra chỗ đứng trong văn hóa và văn hiến của nhân loại. Những người trí thức Trung Quốc liêm chính mà tôi quen biết, họ ý thức rất rõ cái tư cách thấp, hèn, tồi, dở qua chuyện trộm, cắp, cướp, giựt đất, biển, đảo, và họ không hãnh diện gì về các mưu mẹo thâm, hiểm, độc, ác của chính quyền Tầu hiện nay đối với các láng giềng tại Châu Á, rồi bây giờ lại châu lục đói nghèo Phi Châu, và từ lâu nay đối với thế giới văn minh của dân chủ và nhân quyền.
Những người Trung Quốc trong di dân rồi nhập cư tại Phương Tây, biết ngày ngày học lối sống đẹp của các nước văn minh, họ phải công nhận là Tầu đối đãi không hay, không lành với láng giềng, với bá tánh, nhưng thế giới còn lại thì không đối xử tàn tệ lại với họ, những người Hoa này còn lương tri nên họ thường tâm sự là họ rất ngượng về cái tồi, tục, thấp, dở của chính quyền họ, cái lanh, xảo, đảo, lừa của đảng cộng sản Tầu hiện nay. Trong tai nạn buôn người di dân gốc Phúc Kiến qua Âu Châu, các nạn nhân bị dồn nén và chết ngộp trong xe chở động vật từ eo biển Dover vượt biên vào Anh Quốc thủa nọ, người Phương Tây thấy rất lạ là Đại Sứ Quán Trung Quốc hoàn toàn vắng mặt, cũng không có một người Trung Quốc nào tham gia vào việc mai táng, trong khi đó người phương Tây chăm lo chu đáo cái đám tang tập thể này. Người ta còn ngạc nhiên hơn khi thấy các trẻ em của nước sở tại đã tới tham gia, trong tay chúng cầm đồ chơi do Trung Quốc sản xuất, và biết cảm ơn qua câu: «đồ chơi mà chúng cháu chơi có thể do một trong số người Trung Quốc bị chết này góp phần làm ra”. Cái tâm tình trong ân nghĩa trong câu này là nhân dạng sáng ngời chất văn minh của các xã hội có tâm dân chủ nên có nghĩa nhân quyền. Chính các trí thức chân chính của Trung Quốc cũng thừa nhận là giáo dục Tầu làm ra con người Tầu: xem nhẹ tính mạng của bản thân mình, nên xem thường tính mạng quốc dân mình, để rồi xem thấp tính mạng của tha nhân. Khi chính bản thân mà xem rẻ sinh mạng mình thì sẽ coi số phận của nhân loại chẳng ra gì nữa, lại càng không hiểu tại sao người khác (người dưng nước lã) quý trọng lại sinh mạng mình. Tâm lý bàng quan thì sinh ra tâm thái dững dưng, tâm thần thờ ơ, tạo ra tâm trạng lãnh đạm, thậm tệ hơn khi thấy người khác bị giết hại, có khi thấy hào hứng kích động. Trong lịch sử Trung Quốc, giai cấp thống trị Tầu cũng có thói lạ là đưa các cuộc hành hình, xử trảm để hoạt náo đám đông. Còn đám đông dân chúng trị thì hưởng cảm giác hưng phấn trước chết chóc của người khác, biến cái vô cảm ra cái khoái cảm. Những thói quen “xét trảm trước công chúng” không hề rời lịch sử Trung Quốc. Đạo đức học không sai khi phân tích: hạ thấp sinh mạng tha nhân chính là hạ thấp sinh mạng của bản thân mình. Thác Bạt Hoành (Hiếu Văn Đế, triều Bắc Ngụy) đổi tên nước Nhu Nhiên thành Nhu Nhu (“sâu bọ”), rồi sau đó ông bị chính Nhu Nhiên đánh bại, như vậy Thác Bạt Hoành đâu có hơn «sâu bọ»!

Nhân Việt nghiệm nhân Trung (P6)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này