Tôn giáo và chính trị
Đời sống con người phát triển từ bộ lạc đến quốc gia, từ gia đình đến dân tộc , từ săn bắn đến nông nghiệp, kỹ nghệ. Hiện tượng thiên nhiên được gán cho thần thánh, trời đất cho đến khi một dân tộc dựa vào nhân vật lãnh đạo được đại diện cho quốc gia cũng là người đại diện A cho trời đất (thiên tử) để điều hành đời sống xã hội. Khi nền văn minh loài người phát triển qua kinh tế thì tranh chấp quyền lợi đưa đến xung đột giữa vai trò B: chính trị (vua) và C: tôn giáo (niềm tin nơi đấng tối cao). Nếu xưa kia B cũng như mọi người (ăn, ngủ, gia đình, vui buồn…) thì đến khi cầm quyền (làm vua) thì lại thay đổi (chiến tranh, tham nhũng, xa hoa…). Hoặc như C thay vì sống và phục vụ quần chúng (tín đồ) thì lại dựa vào giáo hội để cai trị, thu lợi, sống không khác gì B. Vai trò đầu tiên A giả sử làm điều tốt đẹp cho xã hội thì lại suy thoái biến thành B và C. Có khi B xấu thì C tốt (hay ngược lại) nhưng chẳng may có lúc cả cùng xấu thì không phải chỉ một (hay hai) quốc gia (dân tộc) lâm nạn mà có khi cả một vùng địa lý cùng chịu vì ảnh hưởng tôn giáo vượt trên biên giới quốc gia.
Loài người sống còn vì có tiến hóa, phát minh, học hỏi. Tôn giáo và chính trị cũng do loài người sáng tạo thì tất nhiên phải tiến hóa. Sự độc tôn, độc quyền trong tôn giáo cũng như chính trị sẽ không tồn tại. Cá nhân sống cần tập thể xã hội nhưng xã hội phải thuận hòa với cá nhân. Khi có xung đột khiến cá nhân bỏ đi tìm tập thể khác thì xã hội không thích ứng với nhu cầu cá nhân sẽ suy tàn. Phản ứng tất nhiên là cơ chế độc tài sẽ tìm cách ngăn chận bằng bạo lực để thử thách quyết tâm của con người. Quyết tâm đó đòi hỏi dân trí qua giáo dục, truyền thông. Từ đó cá nhân hiểu về nguồn gốc và cơ chế tôn giáo, chính trị. Nếu hệ thống chính trị thay đổi được thì hệ thống tôn giáo cũng vậy. Niềm tin phải qua lý luận, thử thách. Nếu lãnh đạo tôn giáo hay chính trị cũng là người thì bất cứ cá nhân nào có quyết tâm, thiện chí học hỏi và hành động cũng có thể làm được .Vậy thì tại sao phải chạy theo kẻ khác? Phải phán xét lời nói và hành động của giới lãnh đạo chứ không thể chỉ là niềm tin đơn thuần.
Đối kháng lại “thiên đường”, “niết bàn” của tôn giáo là chính trị đưa ra viễn ảnh sự “hưởng thụ” gọi là “hạnh phúc”, “thịnh vượng”, mà không xác định “nó” là gì? Như thế nào? Ở đâu? Thì chỉ là từ ngữ rộng tuếch. Do đó mỗi người phải ý thức để cân bằng phương trình đời sống với ảnh hưởng của Trời Đất (Âm Dương). Khi phương trình “sống” không cân bằng thì nếu không là giả dối thì cũng không tồn tại. Tôn giáo cho rằng trong thế giới loài người thì mọi sinh hoạt đều có liên quan đến nhau nhưng chỉ có tôn giáo của TA mới giải quyết được mọi bế tắc mà các tôn giáo khác không làm được (thì dụ: thiên đường hạnh phúc). Các tôn giáo lớn trở thành chính quyền không biên giới và dĩ nhiên sẽ đụng chạm với tôn giáo khác có cùng âm mưu cai trị thế giới. Trong khi mặt trận chính trị bị hạn chế bởi biên giới quốc gia nhưng khi chủ trương làm giàu, sống thịnh vượng bằng cách xâm lăng, chiếm đoạt tài nguyên nếu không gây chiến tranh thì cũng gây ô nhiễm các nước nhược tiểu, nghèo đói. Hậu quả là di dân, bệnh tật ảnh hưởng ngược lại tới các quốc gia tiền tiến. Di dân hay chiến tranh tất xảy ra thì không thể sống hạnh phúc khi đời sống luôn bị đe dọa.
Khi chính trị dựa vào tôn giáo để duy trì đạo đức xã hội và ngược lại tôn giáo nhờ chính trị điều hành luật lệ, kinh tế, giao thông, an ninh để phát triển tôn giáo. Nhưng tài và đức thường không đi đôi với nhau. Cá nhân có tu dưỡng thì ít vì chính giáo đều dạy mỗi người phải tự bước đi chứ không thể nhờ vả kẻ khác; nhưng đa số lãnh đạo tôn giáo ngày nay chưa tu thân đã nhắm đến quyền lực giáo hội. Về chính trị thì muốn phục vụ xã hội phải biết tu thân trước nhưng người tốt thì ít mà kẻ xấu thì nhiều nên mọi phương tiện, thủ đoạn được sử dụng để nằm quyền lực. Khi chính trị gia (ác) cấu kết với lãnh đạo tôn giáo (xấu) để che giấu mặt đạo đức thì dễ lôi cuốn quần chúng nhẹ dạ, lười biếng muốn an thân để hưởng thụ và như vậy chỉ dẫn đến chế độ độc tài vì sinh hoạt dân chủ đòi hỏi người dân thường trực tham dự hoạt động chính trị (cũng như trong tôn giáo thì chính họ phải bước đi chứ không phải nghe các lãnh đạo tôn giáo thuyết giảng).
Quốc giáo
Khi lãnh đạo tôn giáo mượn tôn giáo để mưu cầu chính trị như nhà tiên tri của Tà giáo X tiên đoán đạo TA sẽ thống trị thế giới. Tham vọng này không khác gì cộng sản mượn chủ nghĩa Marx để thống trị thế giới bằng mọi thủ đoạn. Một trong những lý do tà giáo có số đông tín đồ nhất thế giới vì kỷ luật khắc nghiệt và sự trừng phạt tàn bạo mọi kẻ phê bình, chống đối. Kẻ bỏ đạo sẽ bị tiêu diệt. Nếu lấy vợ (chồng) ngoài đạo thì phải bắt bỏ đạo để theo Tà giáo. Tất cả chỉ là “có thêm chứ không mất đi”. Tuy bề mặt là bảo thủ, chống đối (cho mình là nhất) ảnh hưởng Tây phương nhưng vẫn sử dụng tiện nghi kỹ thuật, khoa học Tây phương. Sự đối xử giữa Nam Nữ cho thấy Tà giáo coi người Nữ như phương tiện sản xuất chiến binh (nếu là nam) hay nô lệ (nếu là nữ). Người nữ phải làm việc nặng, sản xuất, lo ăn uống cho gia đình…nhưng người Nam có thể không làm gì cả mà vẫn có nhiều vợ, con cho dù không giáo dục (vì tôn giáo lo hết) nghề nghiệp. Tuy tuyên bố “mọi người là anh chị em” nhưng khi khác phái (chia hai phe từ khởi thủy) thì giết nhau như kẻ thù. Đặc biệt là Tà giáo chê bai, chống đối tiêu diệt tôn giáo khác nhưng đối với Phái Anh em thì nếu gặp lãnh đạo chính trị tàn bạo hơn thì sống chung được êm thấm. Nếu lãnh đạo chính trị yếu sẽ bị lãnh đạo tôn giáo lật đổ và hai phái Anh Em quay ra giết nhau. Cũng vậy khi có thiên tai, hoạn nạn thì các nước Tà giáo Anh (hoặc Em) ngó lơ, chẳng giúp đỡ gì cả để các nước Tây phương (bị coi là dơ bẩn) cứu trợ. Trở lại với nhà “tiên tri” thì chẳng có gì chứng minh điều tiên tri sẽ thành sự thật vì không còn lời tiên tri nào khả dĩ chứng minh sự khả tín. Niềm hãnh diện về nền văn minh tà giáo cũng không khác gì những nền văn minh đã bị tiêu diệt vì đi vào sai lầm khi hủy diệt thiên nhiên và con người. Chưa kể đến đời sống bê bối của nhà tiên tri không thể so sánh với các đấng sáng lập tôn giáo khác đã được che giấu qua kinh điển cũng như khi truyền đạo.
Sấm khảo (hay tiên tri)
Trong hoàn cảnh bị áp chế của hai thế lực chính trị và tôn giáo, người dân tìm lối thoát qua lá bài hai mặt (cả tôn giáo lẫn chính trị) đó là sấm khảo (hay tiên tri) được sáng tác bởi cá nhân thường là ẩn danh. Đa số mượn danh nghĩa qua thần thánh trao truyền để tăng uy tín nhưng cũng có trường hợp là học hỏi qua phương thức bí truyền (Thái ất, Nostradamus). Chuyện “thần thánh” hiện ra để XYZ thì như đã nói ở trên. Ai tin ráng chịu. Nếu thật sao không nói hết. Nếu vì tình thương thì sao không cứu cả đôi bên? Nếu đã có tội thì ráng chịu, loan báo làm gì, có thay đổi được bao nhiêu? Nếu báo cho dân sao không báo cho hàng xóm, cho lãnh đạo, cho quân đội sẽ tham chiến và chết? Nếu là thiên tai thì chạy trước sẽ gây hỗn loạn. Định mệnh có thể thay đổi cho A nhưng không cho B?
Tôn Giáo, Chính Trị và Sự Tiên Tri (P3)
Trần Công Lân
Tháng 8 năm 2024 (Việt lịch 4903)