Nhân Việt nghiệm nhân Trung (P4)

Quỷ, thần: không biên giới
Những ai nhanh hơn người từ tư duy tới lý luận, vượt trội hơn kẻ khác từ thông minh tới hành động, thì được văn hóa Tầu đặt cho nhãn hiệu là: «xuất quỷ nhập thần», chuyện này người Việt chúng ta đã lĩnh hội, tiếp nhận, không có gì là khúc mắc, nhưng có chuyện lạ là trong chính giới của Tầu, từ cổ tới kim, nhất là trong giới quân sư, tư vấn cho lãnh đạo Tầu lại có một câu khác, khi họ thẩm định nhau, khi họ khen nhau: «mưu thần chước quỷ», mà ta cần phân tích sâu thêm (hiểu ngữ văn để hiểu ý định, hiểu ngữ pháp để thấu ý đồ). Chuyện ở đây không chỉ là chuyện chính trị, quân sự, ngoại giao mà mọi kẻ sống nhờ mưu kế trong chính giới đều hiểu được; nhưng nó cũng là chuyện biên giới giữa nhân và tà, về mặt đạo đức thì hai lãnh thổ nhân và tà luôn được phân định rõ ràng, theo đạo lý nhân thì phải dùng luân lý của chính tâm và thành ý để loại tà. Vì muốn tề gia, rồi trị quốc để bình thiên hạ thì phải có chính tâm và thành ý. Vì tà tâm dẫn tới tà ý không chóng thì chầy đưa tới: tà đạo, vậy mà giới quân sư, giới lãnh đạo Tầu không những sẵn sàng vào tà đạo, mà họ cũng không ngần ngại vào lối của ma đạo, không chần chừ làm loại bá đạo, để thắng đối phương, diệt kẻ thù. Trước khi đi thêm bước nữa trong lý luận, diễn luận, lập luận về chuyện «quỷ, thần, không biên giới» này, chúng ta nên khẳng định với nhau ba điều: thứ nhất, tà tâm và tà ý đưa tới hành vi tà đạo, hành động ma đạo, hành xử bá đạo nằm trong ý đồ thâm, độc, ác, hiểm, thường đi kèm với lừa, tráo, xảo, gian mà hậu quả qua hệ lụy là xấu, dở, tồi, thấp, không những cho đạo đức mà còn cho giáo dục, tức là cho nhân phẩm và nhân tri. Thứ hai, tà-ma-bá là loại biện minh thấp trong lý giải «cứu cánh biện minh cho phương tiện», vì có những cứu cánh, những phương tiện không cần qua tà-ma-bá, tức là không cần qua thâm, độc, ác, hiểm, không cần qua lừa, tráo, xảo, gian. Thứ ba, có thể thắng đối phương mà không cần diệt, tức là thanh toán, giết hại kẻ địch, ở đây Phật học đưa ra một định nghĩa về chiến thắng không hề có trong Khổng học và Lão học là: chiến thắng cao đẹp nhất trong cuộc sống là ta cùng thắng với đối thủ, và cả hai cùng nhau bảo vệ sự sống, vượt qua cho bằng được chuyện sát hại lẫn nhau cũng như chuyện sát hại chúng sinh. Đạo phật có chỗ đứng vững trong văn hóa Trung Quốc vì nhân dân Trung Quốc cần từ, bi, hỷ, xả của Phật từ phương xa tới, để vượt thoát một đất nước có quá nhiều mưu lược gia mà lại có quá ít tư tưởng gia, lại càng vắng tanh các đạo đức gia kể từ khi Khổng, Mạnh quy tiên.
Suy xa phải nghĩ gần, hãy trở lại lịch sử thanh toán và thanh trừng của ĐCSVN từ ngày thành lập tới giờ, không những họ đã có phản xạ của các đảng Cộng Sản khác trên thế giới về chuyện dùng bạo lực để phục vụ chuyện độc tài, độc quyền, độc tôn của họ khi chiếm lĩnh chính giới, mà trong ảnh hưởng giáo dục chính trị của Tầu tà; mà họ đã bị thâm lậm các độc tố của phương thức «quỷ, thần, không biên giới», trong cách hành xử tà tâm-tà ý-tà đạo, nhiều lần sử dụng thâm, độc, ác, hiểm của ma đạo, nhiều lần áp dụng lừa, tráo, xảo, gian của bá đạo. Loại đối nhân xử thế tà-ma-bá này được triết gia Trần Đức Thảo đúc kết cuối đời của mình khi trả lời phỏng vấn trong cuốn Những Lời Trăn Trối, qua 2 hình ảnh: «ĐCSVN giết người hôm trước, hôm sau chính họ lại mang vòng hoa phúng điếu, tới khóc trước mộ của nạn nhân». Có một điều chắc chắn từ trước tới nay là không ai đọc rõ, hiểu kỹ lý thuyết của Marx hơn Trần Đức Thảo khi ông nghiên cứu và cho xuất bản cuốn Phénoménologie et Marxisme. Cũng có một điều chắc chắn là trong lịch sử của ĐCSVN, không có một lãnh đạo nào từ Trung Ương đảng tới Bộ Chính Trị, không có một vị nào đã đọc toàn bộ và nắm rõ từ diễn đạt tới lý luận bộ: Tư Bản Luận, của Marx là cội, nguồn, gốc, rễ để thiết kế Cộng Sản Chủ Nghĩa. Các lãnh đạo của ĐCSVN chỉ nghe trích câu và trích đoạn của các lãnh đạo của các đảng Cộng Sản anh em, hoặc qua các trợ lý chung quanh họ, vì vậy trong gần một thế kỷ mà ĐCSVN chiếm độc quyền lãnh đạo đất nước, ĐCSVN đã không có một công trình học thuật nào về lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận về chủ nghĩa xã hội và Cộng Sản mà họ muốn xây dựng, mà họ ép dân tộc Việt phải theo. Không «cứng vía» trong kiến thức và tri thức, «hiểu thấu, suy sâu» để lý luận và lập luận, nên họ đã vô tình bắt Việt tộc phải trả những cái giá rất đắt, mà thí dụ điển hình là sức ép của Trung Quốc buộc họ phải tổ chức cải cách ruộng đất sau 1954, mặc dù Hồ Chí Minh biết là tình hình nông thôn, tổ chức nông nghiệp và cơ cấu văn hóa làng xã của Việt Nam không giống như Trung Quốc. Mặc dù Trường Chinh là Tổng bí thư thời đó cũng không đồng ý với đảng đàn anh này, ông vừa muốn hoãn lại, vừa muốn hợp lý hóa các giai đoạn cần thiết về cải cách này, để tránh các chính sách cực đoan, tránh các hành động quá khích, nhưng cũng chính ông phải đứng ra nhận kỷ luật, nhận lỗi và từ chức, sau các sai lầm đầy dẫy chết chóc của cuộc Cải Cách Ruộng Đất này. Phản xạ phục tùng đảng đàn anh, và đảng đàn anh Tầu đã «nắm đầu» được ĐCSVN cả thế kỷ hai mươi, chuyện này cho ta thấy là các lãnh đạo của ĐCSVN thiếu bản lĩnh tự chủ tư duy, thiếu tầm vóc độc lập suy nghĩ, trong đó nội lực trí thức dựa trên nội công tri thức của họ thật sự yếu, kém, thấp, dở. Các lãnh đạo của ĐCSVN sống trong lệ thuộc không những qua viện trợ của đảng đàn anh Tầu trong nội chiến 1954-75, mà Việt tộc thấy rõ là họ không có sung lực phản biện trên chính trường quốc tế Cộng Sản, nên họ đã để các đảng đàn anh (Tầu, Liên Xô) thao túng, giật dây họ, mà hậu quả trực tiếp là gieo trên đầu nhân dân việt nam những đại nạn của nội chiến. Mà chuyện đau lòng nhất cũng chính đảng đàn anh Tầu đã chủ mưu cắt Việt Nam làm đôi tại hội nghị Fontainbleau, 1954, cũng chỉ vì Chu Ân Lai và đồng bọn sợ Mỹ và đồng minh, nên chúng mới lấy đất nước và nhân dân Việt Nam để làm rào chắn chiến tranh, chết thay cho chúng. Chia cắt đất nước Việt bằng vĩ tuyến 17, ngay trong hội nghị Fontainbleau mà Chu Ân Lai và đồng bọn đã chuẩn bị rất kỹ khi đề nghị với Phạm Văn Đồng là dùng sông Bến Hải để phân chia; thì chính Phạm Văn Đồng là người Việt Nam, lãnh đạo tối cao ngoại giao tại hội nghị này cũng không biết là: Việt Nam có sông Bến Hải, và nó nằm ở đâu? Như vậy, thì Tầu biết rõ đất nước Việt hơn người Việt! Con dân Việt phải nghiêm cẩn vì hiện nay Tầu đang thao túng kinh tế, sa đọa thương mại đi cùng với đầu độc thực phẩm, song hành với đưa người trên miền cao là Tây Nguyên, rồi chọn Hà Tĩnh để ra Trường Sa, Hoàng Sa như «với tay chớp nhoáng» khi cần xâm lăng, đây một con tính thâm, độc, ác, hiểm không những để xâm lược Việt Nam trên nhiều mặt trận, mà cùng lúc nhẫn tâm hủy diệt thể lực của cả một dân tộc qua ẩm thực và môi trường. Và các nước kề cận như: Miến Điện, Lào, Campuchia cũng sẽ chịu chung một số phận, như Việt Nam, rất ngặt nghèo nay mai. Cái mà Tầu tự khen là «mưu thần chước quỷ», lấy sinh mạng kẻ khác để làm vật tế chiến tranh thay cho chúng chỉ là loại «mưu tồi chước hèn», rất xa lạ với nhân cách giáo lý Việt tộc. Chúng ta đừng quên là cái «mưu thần chước quỷ» kiểu Tầu này, đã làm bao trăm ngàn người mất mạng trong Cải Cách Ruộng Đất, đã làm bao triệu người thiệt mạng trong nội chiến 1954-1975.
Suy người phải nghĩ tới ta: thiếu tự chủ tư duy, thiếu độc lập suy nghĩ, thiếu tầm vóc trí thức, thiếu nội công tri thức, hệ vấn đề này từ đâu ra? Và tại sao nó lại kéo dài cho tới bây giờ như «nghiệp nạn» của tri thức, như «khổ nghiệp» của trí thức, với hiện tượng học giả-thi giả-bằng giả hiện nay trên đất nước của Việt tộc! Nó nói lên ít nhất mười điều! Thứ nhất là sự vô trách nhiệm của chính quyền song hành cùng cái thiếu đạo lý của chính phủ trước kiến thức trong hệ thống giáo dục. Thứ hai là hành vi lừa, tráo, xảo, gian đã đưa ma đạo vào học thuật, nơi mà cái giả, vờ, lận, đảo không có chỗ đứng trong học thuật, mặc dù nó có chỗ đứng trong chính trị. Thứ ba là cái hệ lụy xấu, dở, tồi, thấp mặc dù nó có chỗ đứng trong học hàm, học vị, nhưng chuyện chính là: học lực phải qua học thật trong một không gian của «văn ôn, võ luyện», của học thật và thi thật, huấn nghiệp thật và đào tạo thật, giáo dục thật đi cùng giáo khoa thật, giáo trình thật, giáo án thật. Thứ tư là học gian sẽ sinh ra học lóm, nơi mà nói liều một sớm một chiều trở thành nói điêu, không tôn sự thật, không trọng chân lý, không quý lẽ phải thì sẽ chịu cảnh nói giả và sống giả. Thứ năm là học cóp sẽ nảy ra học mót, hiểu không tới nơi, thấu không tới chốn, lượm lặt hấp tấp kiến thức sẽ đưa tới bớt xén vội vã tri thức, chưa xuất thế khi đang học, thì cóp mót rồi thành tâm loạn «tẩu hỏa nhập ma», gây tác hại không những cho bản thân mà luôn cho xã hội. Thứ sáu là học phớt sẽ làm bật ra học phẩy, không dám đào sâu trong phân tích, không dám đi xa trong giải thích, không dám lên cao trong giải luận, dễ «ba phải» tức là dễ bị thao túng, dễ «đổi chiều theo gió» vì không dám bảo vệ chân lý, vừa là rễ của sự thật, vừa là gốc của lẽ phải. Thứ bảy là học cào mà không dám học đào, cào cho mau để lấy ăn liền, không dùng thì giờ cần thiết để đào tới nơi, để hiểu tới chốn, đào để thấy rõ rễ, cội, gốc, nguồn như vậy mới hiểu rõ hơn cành, lá, hoa, quả; và học cào thì không hiểu tại sao có quả này tốt, quả kia xấu, còn học đào thì sẽ thấu rễ mạnh, gốc vững sẽ cho trái ngọt, cây lành. Thứ tám là học vớt mà không dám học cắm, hành vi vớt váng cho nhanh tới từ thái độ ăn xổi ở thì, thì không đủ quả cảm và quyết đoán để cắm xào mà «nằm gai nếm mật» với học thuật, suốt đời tầm sư học đạo. Thứ chín là học nhìn mà không chí tâm, chí tình để học thấy, nhìn mà không thấy thì như không nhìn, vì thấy để thấu, thấu để hiểu, hiểu để giải, giải để luận, luận để thuật, luận để dụng…thí dụ điển hình là sáng tạo thuốc nổ là do Trung Quốc tìm ra và chỉ sử dụng để làm pháo hoa, còn phương Tây khi đã nhìn, thấy, thấu, hiểu rồi thì giải, luận, thuật, dụng để biến thuốc nổ thành thuốc súng, tạo vũ khí, chủ động trong vũ khí luận, để xử lý chiến tranh. Thứ mười là học lậu chống học lâu, học lậu mang chuyện luồn lách vào thi cử, mang chuyện lươn lẹo vào bằng cấp hoàn toàn phản lại học lâu dựa vào chữ nhẫn để làm nên chữ nhân, lấy cái quyết tâm, quyết chí làm nên cái bền lòng, bền trí trong học thuật, học lậu đi đường tắt, học lâu nhận đường dài, vì học lâu muốn làm sáng lên chân lý của tri thức: «so ra mới biết ngắn dài».

Nhân Việt nghiệm nhân Trung (P5)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này