Nhân loài hay súc loại
Tháng bảy, 2016, tòa án quốc tế tuyên bố: Tầu không có một chủ quyền pháp lý và lịch sử nào trên biển Đông, như vậy Philippines: đúng, Tầu: sai; sau đó là Nhật Bản, Indonésia, Malaisia bắt đầu làm đơn kiện Tầu, như Philippines, (trong đó không có Việt Nam). Cùng lúc, thế giới kinh ngạc khi thấy trên các mạng tin tức và truyền thông những hình ảnh các nhà hàng tại Trung Quốc đã in những tấm biển lớn: «Tại đây không tiếp Nhật, Philippines, Việt Nam và chó», cái hung giận Tầu đã biến thành kỳ thị kiểu Tầu, kiểu kỳ thị mà xem người ngang với thú vật, thì chính họ đã là nạn nhân trong khi họ bị thực dân Anh đô hộ, họ «lấy ra để sài lại» một cách rất vô liêm sỉ! Nhưng câu chuyện nhân loài hay súc loại có gốc, rễ, nguồn, cội trong văn hóa, trong lịch sử Tầu. Vì trong Tam Quốc, chúng ta thấy xuất hiện một chuyện lạ, rất lạ so với nhân cách giáo lý Việt tộc, là các lãnh tụ thời đó: từ Đổng Trác tới Lữ Bố, từ Tào Tháo tới lãnh đạo của các chư hầu, khi họ ra tay giết đối thủ, thì ngôn ngữ của họ vừa bạo, vừa tục: «giết trâu, chó», «giết dê, gà», những kẻ thấp phận bị gọi là «chuột», bé kiếp thường bị gọi là «sâu, bọ»! Loại ngữ văn này cho ta thấy là đối phương hay kẻ thù của họ không phải là nhân loại hay mà là súc loại. Ngay khi họ lầm trong nhận định, phán đoán, suy xét thì họ luôn để lộ ra loại ngữ pháp rất súc tính, thí dụ điển hình là Tào Tháo, mỗi lần có đối thủ nào thua trận, hoặc đầu hàng hắn thì hắn thường thốt ra câu: «tưởng là long, phụng, ai ngờ chỉ là dê, chó». Các thí dụ này khiến chúng ta phải suy nghĩ trong sáng suốt và nghiêm túc về một loại nhân sinh quan có liên đới với súc tính. Hãy lấy thêm một thí dụ khác: khi biết Điêu Thuyền và Lữ Bố yêu nhau, thì Dương Doãn là nghĩa phụ của Điêu Thuyền đã dùng mưu: mỹ nhân kế, đẩy Điêu Thuyền về phía Đổng Trác là nghĩa phụ của Lữ Bố, để hai cha con này chém giết nhau vì Điêu Thuyền, đó là mẹo để thắng. Có cuộc đối thoại để lại trong sử Tầu là: Điêu Thuyền có hỏi một câu về nội dung luân lý với Dương Doãn: «Tại sao cha đẩy con vào tay súc vật?», Dương Doãn trả lời là: «muốn thắng súc vật phải nhận rơi vào tay thú vật!». Câu hỏi thứ hai của Điêu Thuyền, chuyển thắc mắc về luân lý thành nghi vấn về đạo lý: «như vậy cha có phải là súc vật không?» Dương Doãn trả lời bằng nội dung hạ nhân-diệt đạo, đây là loại mưu kế nơi mà cứu cánh biện minh cho phương tiện một cách vô nhân nhất: «để thắng súc vật, cha sẵn sàng làm súc vật!». Loại tư duy coi người là thú, coi đối thủ là loại súc sinh thấp kém, và sẵn sàng có các thái độ, hành vi, phong cách, tính toán một cách thú tính nhất để thắng, hoàn toàn không có trong tư duy của người Việt, không có trong nhân cách giáo lý Việt tộc, cho nên bài học của Nguyễn Trãi «lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn» phải luôn là bài học phải được Việt tộc quý trọng trong mọi cách hành xử trên chính trường quốc tế. Ngay tại đây, mọi người phải luôn thận trọng trước các mưu sâu của các lãnh đạo Tầu bất cứ thời điểm nào của lịch sử là: họ lấy chữ nhân của Khổng để truyền Khổng trong văn hóa, trong giáo dục, nhưng họ phản Khổng trong chính trị, trong quân sự. Cụ thể là họ «dạy đời» thiên hạ bằng Khổng giáo, nhưng họ lén lút hành xử rất phản Khổng giáo, tổ tiên Việt tộc đã dặn con cháu là: «lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo».
Nhân loài hay súc loại, bắt chúng ta suy nghĩ thêm về các chiến lược «biển người» của các lãnh đạo Tầu, thí binh-nướng lính, coi kiếp người như số vật, thí dụ gần nhất là chuyện thiệt mạng hơn 30 triệu sinh linh chỉ trong một cuộc cách mạng văn hóa, không chiến tranh mà thiệt hại hơn bao cuộc chinh chiến. Lý luận lấy số lượng để hù dọa đối thủ, sử dụng định lượng để ấp đảo đối phương hoàn toàn xa lạ với nhân cách giáo lý (đồng bào) của Việt tộc, lại càng hoàn toàn lạ lẫm trong bối cảnh toàn cầu hóa (nhân quyền) hiện nay. Như vậy, muốn thắng Tầu, thì ta và cả thế giới (văn minh) phải kết hợp với các lực lượng nhân quyền, các phong trào dân chủ của Trung Quốc, cùng vượt thắng bọn lãnh đạo bá quyền và bành trướng vô liêm sỉ bằng chữ nhân. Thêm một thí dụ khác nữa cũng thời Tam Quốc, tên gian hùng Tào Tháo có một lối lập luận về số lượng rất vô nhân ngay trong chiến bại, hắn thường an ủi những cận tướng bại trận của hắn đang buồn lo trước bao tử vong trong chiến trận rằng: «Nếu chết số ngàn lần này, thì lần tới ta sẽ tặng các tướng số vạn!». Ngoài hệ vấn đề luân lý, còn có hệ vấn đề lý luận, trong tư duy Tầu họ còn cho phép dạy thiên hạ: «muốn bình thiên hạ thì phải cần bạo chúa»; «có bạo chúa mới có công trình», có không ít người Việt ta bị «nhiễm trùng tư duy» qua loại lý luận vô nhân này, vì trong lịch sử của nhân loại, có nhiều quá trình hòa bình, thanh bình, thái hòa, với nhiều công trình có tầm vóc tri thức, mà không cần có bạo quân, bạo chủ, bạo chúa. Từ chuyện cổ sử tới chuyện đời nay, cách ứng xử giữa người Tầu với nhau làm các du khách ngoại quốc tới Trung Quốc rất thắc mắc: trong những thành phố được xem là hiện đại như Bắc Kinh, Thượng Hải… du khách thấy người Tầu chen lấn, xô đẩy, sát phạt nhau ở những nơi công cộng, người trẻ không kính nhường người lớn tuổi trong xe điện, trong thang máy…. Chuyện quái lạ là khi có ẩu đả ngoài đường, thì có người vô cảm và kẻ kích thích bạo động nhiều hơn là người cản, kẻ can, cụ thể là thay vì khuyên ngăn bạo động, đám đông thị hiếu còn kích động: «đánh đi!», «đánh nữa đi!». Chuyện còn quái lạ hơn, ở thành thị cũng như thôn quê hiện nay, khi thấy kẻ tuyệt vọng có ý đồ tự vận, thì đám đông mà thị hiếu đã qua hiếu kỳ, đã đưa vô cảm vào vô tâm, còn xúi dục thêm: «tự tử đi!»; «tự tử đi! Dám thì làm liền đi!». Đây không phải là chuyện kể để tạo kỳ thị, mà biết để hiểu rằng những người Trung Quốc còn lương tri rất xấu hổ về dân chúng vô cảm, dân tình vô tâm của họ. Dân Việt đã dần dần khám phá ra các chuyện này qua du lịch Tầu hiện nay: họ giành ăn hằng ngày với nhau trong bữa cơm tại Nha Trang, họ xả rác rồi văng tục vô lối tại Đà Nẵng, họ xô đẩy rồi lấy cắp hàng vô tội vạ của người Việt bán rong tại Vũng Tàu…. Trong phản xạ «không thích Mỹ», vì «ganh với Mỹ», người Tầu có những hành vi bất nhân khi xem trên truyền hình, hoặc qua truyền thông về các vụ khủng bố tại Mỹ, kẻ thì vỗ tay: «nổ hay!», người thì khen ngợi: «chết nhiều!». Khi nghe khủng bố 11 tháng 9, năm 2001, có những xóm làng, có những cư xá sinh viên, có những khu quân sự tại Trung Quốc «khua nồi, đập chảo» để «ăn mừng khen khủng bố»! Ở đây, tà kiến ác tri song hành cùng cái tạp thức vô luân, sánh bước không ngần ngại với cái vô minh biệt luân, trước cái chết chóc của nhân loài. Việt tộc phải cẩn trọng! Vì cái vô cảm, vô tâm, vô tri, vô giác đã và đang thâm nhập vào tâm hồn Việt, vì trong quá khứ ta đã chung chạm quá lâu với Tầu qua bạo quyền phong kiến, rồi hiện nay ta vẫn chung đụng quá nhiều qua bạo đảng độc quyền!
Những công trình tri thức lớn của nhân loại là «trợ nhân» chớ không phải là «diệt nhân», trong hệ thống lý luận triết học của Desanti lấy cái gốc đạo lý làm rễ cho nhân tính: «La racine de l’éthique c’est simplement l’accueil de l’autre», cái rễ của đạo lý vẫn rất dễ hiểu nó chỉ là chuyện tiếp nhận tha nhân, ở đây tha nhân không những cùng đồng chủng, đồng loại mà còn cùng đồng phẩm, đồng chất với ta. Trên đất nước Do Thái, ngày đêm máu đổ, triền miên trong quy luật «tử thù không đội trời chung» giữa dân Do Thái và dân Palestine, một mảnh đất mà hai chủ, triết gia Schlanger, gốc Do Thái, trăn trở với các sinh linh ngày đêm bị đe dọa bởi giết chóc, mưu sát, ám hại, khủng bố… ông yêu cầu: «on peut considérer les philsophes comme des écologistes de l’esprit», Hãy coi các triết gia như những kẻ bảo vệ môi trường cho tư duy, trong đó mọi sinh vật được bảo vệ trọn vẹn trong một môi sinh toàn vẹn. Đây là minh triết của nhân sinh để bảo vệ nhân tính trong kiếp làm người, đây cũng là dịp để Việt tộc xem lại rồi viết kỹ hơn và nếu cần thì xét kỹ lại: các chiến trận được xem như là chiến thắng với quá nhiều tử vong có còn là chiến thắng nữa không? Trong xung đột thì có thiệt hại, trong chiến tranh thì có thiệt mạng, nhưng chúng ta có quyền nhân tính (quyền tư duy đi cùng với quyền tri thức) để ước mơ rồi biến ước mơ thành hành động đưa nhân phẩm lên cao nhất, bằng lý trí đồng bào để chế tác ra lý tưởng nhân loại, nghĩa là chỉ có một chiến thắng thật sự là chiến thắng nếu tránh được tử vong, hoặc rất ít tử vong. Chúng ta còn có quyền nhân phẩm (quyền nhân đạo cùng quyền nhân từ) một chiến thắng thật sự là chiến thắng khi ta cùng thắng trận với đối phương, không ai là tử thù của ai, không ai là không đội trời chung với ai cả, Việt tộc phải giành lẽ phải này để thắng bá quyền, bành trướng Bắc Kinh trong những năm tháng tới, mà bọn chủ mưu là các lãnh đạo của đảng cộng sản Tầu, chớ không phải nhân dân Trung Quốc. Nhân Việt và nhân Trung phải cùng nhau thắng bọn lãnh đạo vô nhân này! Khi tổng kết về khoa học luận trong triết học và đạo đức học trong giáo dục tìm mọi cách cùng sánh vai cùng các tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, của kinh tế và truyền thông, triết gia Serres nhận định: «nous entrons dans une période où la morale devient objective», chúng ta đã vào giai đoạn nơi mà luân lý trở thành khách quan. Nơi đây con người nắm ngày càng rộng các kiến thức, ngày càng sâu các tri thức, giúp nhân tính «thuần hơn» để bảo vệ nhân sinh, giúp nhân phẩm «hòa hơn» để bảo vệ nhân đạo; cái sáng suốt của minh triết và cái tỉnh táo của luân lý giúp con người ngày càng cẩn trọng trước các chuyện thiệt hại, ngày càng bảo trọng trước các chuyện thiệt mạng.
Nhân Việt nghiệm nhân Trung (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).