Nhân Việt Nghiệm Nhân Trung (P2)

Đồng bào hay thiên hạ
Khi vua Quang Trung gửi đoàn sứ giả qua Tầu, để gặp vua Càn Long, thì vị minh quân này có dặn dò Phan Huy Ích là trước mặt bọn bá quyền, bành trướng nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt nhớ làm cho chúng thấy là nước Nam ta có phong tục, tập quán riêng, và hãy dụng văn, thơ, thi, họa kể cả vũ nhạc để chỉ rõ: Tầu là Tầu, ta là ta. Nhưng, trong Việt Nam sử lược, thì sử giả Trần Trọng Kim đã thú nhận, ngay chương dẫn nhập, là trong lịch sử của Việt tộc, qua bao nghìn năm ta chỉ có biết một mô hình là: văn hóa là Tầu làm như Tầu, làm giống Tầu, làm theo Tầu, chỉ vì không có các mô hình khác. Chuyện «bóng Tầu đè thân Việt» từ từ được tháo, gỡ, buông, rời một phần từ khi Phương Tây tới đất nước ta, qua Pháp trong quy trình thuộc địa, qua Mỹ trong quá trình chiến tranh, nhất là tình hình toàn cầu hóa hiện nay thì khác hẳn với nỗi lo của học giả họ Trần. Diễn biến thuận lợi của toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta không những học Tầu, Pháp, Nhật, Mỹ mà chúng ta có thể có tầm vóc học hỏi, bản lĩnh học tập, nội công học thuật của năm châu lục, chắc chắn sẽ cao, sâu, rộng, xa so với các thế kỷ qua. Nhưng chúng ta nên bắt đầu bằng cổ sử và cổ văn của Tầu: khi chúng ta nghiên cứu về thời Tam Quốc, trước sức ép hùng binh của Tào Tháo, Lưu Bị phải bỏ thành rút lui, Khổng Minh (Gia Cát Lượng) là minh sư khuyên Lưu Bị đừng mang dân chúng theo sẽ bị hỏng đại nghiệp, chuyện đáng chú ý trong ngữ văn của Khổng Minh cũng như của các quân sư khác trong lịch sử Trung Quốc, nhất là các lãnh đạo phong kiến thì từ: thiên hạ hoặc bá tánh thường được dùng hơn là từ nhân dân. Đây là điểm rất khác nhau giữa Khổng giáo và Phật giáo, đối với Phật đã là người thì là chúng sinh, mỗi chúng sinh có sự sống mà giá trị tự nó thiêng liêng, nên Phật giáo mới dùng từ sinh linh. Đây cũng là cái khác biệt sâu đậm giữa Tầu và Ta, vì ta coi nhau như đồng bào, sinh ra cùng một bào thai, có cùng cha cùng mẹ. Hai loại tên gọi: đồng bào hoặc thiên hạ, bá tánh, khác nhau một trời một vực, mỗi tên gọi là một quan điểm, mỗi quan điểm cắm rễ trong một nhân sinh quan, một nhân sinh quan cắm sào vào không gian của một quốc gia, nó nói lên cái khoảng cách gần hay xa, giữa những người cùng sắc tộc và có cùng một lịch sử, cùng văn hóa và có cùng một giáo dục. Từ đó, nhân sinh quan chính trị của các lãnh đạo luôn làm ra thế giới quan đạo lý của họ: họ xa cách dân chúng họ, hay họ liền da-liền thịt với dân tộc họ, đây là một câu hỏi rất xác đáng cho từng lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay: dân đen, dân oan là đồng bào của họ hay chỉ là thiên hạ hoặc bá tánh, nếu là thiên hạ hoặc bá tánh thì các lãnh đạo của ĐCSVN đã bị Tầu hóa rồi chăng?
Chủ nghĩa dân tộc trung tâm (ethnocentrisme) của Tầu khi tự đặt tên họ là Trung Hoa, trung tâm tinh hoa của nhân loại, từ đây họ cho phép họ đặt tên Birmanie là Miến Điện (đất xa), và họ tự cho phép tất cả thiên hạ xung quanh Trung Hoa họ là «man di» (mọi rợ), thiếu văn minh, không văn hiến. Chuyện cần phân tích ở đây là mọi ý kiến mà được-hoặc bị-thái độ kỳ thị tạo lập nên, thì không còn là chính kiến, nếu không là tạp kiến, thì cũng là tà kiến. Không có chính kiến trong phân tích thì sẽ không biết được sự thật, không có chính kiến trong giải thích sẽ không nắm được chân lý, không có chính kiến trong lý luận sẽ không bảo vệ được lẽ phải. Mọi định kiến được-hoặc bị-thái độ kỳ thị chế tác ra, tức là xem thường người khác, khinh miệt tha nhân, chóng chầy sẽ đưa tới một thái độ khác là: đánh giá thấp đối tác, coi rẻ hàng xóm, dẫn tới hành vi khinh thường đối phương, miệt thị đối thủ. Đây là bi kịch trong lịch sử Tầu: không có láng giềng tốt, không có liên minh lâu dài, vì nước nhỏ hoặc hiền lành như Tây Tạng thì bị Tầu đồng hóa, còn các nước lớn như Ấn Độ, Nga đều thường xuyên bị Tầu gây hấn; riêng đối với Việt Nam khi họ thua trận trước Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung… mỗi lần thua trận, thì họ lại ngạc nhiên, rồi tự trách tại sao họ lại: «khinh thường đối thủ». Hình như đạo lý Việt tộc «đổi họ hàng xa mua láng giềng gần» không có trong tư duy Tầu, hoặc có mà không được tôn vinh. Trong cái «bình thiên hạ» của các lãnh tụ Tầu không có cái đạo lý Việt «trong ấm ngoài êm». Khuyết điểm trong nhân sinh quan Tầu sẽ trở thành khuyết tật trong thế giới quan Tầu, nó đưa tới các hành xử bất nhân, các ứng xử lấy khinh thị là chính thị, tức là đưa cái kỳ thị khinh miệt các đối tác vào ý kiến và phân tích chính trị của Tầu. Khuyết tật này mở đường cho kỳ thị có chỗ đứng chính thức trong giáo dục, trong đào tạo, trong huấn luyện các thế hệ trẻ, vì họ sẽ lập lại các tư duy dựa trên kỳ thị, lấy tạp kiến làm chính kiến, lấy tà kiến làm định kiến. Sống mà không có láng giềng gần, bạn bè xa là một thất bại lớn không những trong chính trị, ngoại giao, quân sự, mà là một thảm bại của kiếp làm người, tự cô lập mình qua các tự kiến của chính mình chế tác ra, sẽ chịu cảnh cô đơn trong côi cút khi ra khỏi nhà, xa nước. Nhân cô đơn với láng giềng sẽ cho ra đời quả cô lập trên thế giới. Khi tòa án quốc tế tuyên bố: Tầu không có chủ quyền pháp lý và lịch sử trên biển Đông, sau vụ kiện của Philippines, thì rất nhiều người Tầu mới «vỡ lẽ» là không những họ có thể bị cô lập trên trường quốc tế, mà họ còn bị tố cáo trước hoàn cầu, nếu họ tiếp tục tự xem mình là trung tâm của nhân loại. Khuyết tật xem thường người xung quanh, Tầu cũng bị lậm lụt trong học thuật, thí dụ điển hình hiện nay là nhà triết học François Jullien của Pháp, dùng một phương pháp luận phân tích hỗ tương, hoàn toàn mới: lấy tư tưởng Trung Quốc để soi rọi vào các «góc tối» của triết học phương Tây, và ngược lại dùng triết học phương Tây để soi lùng trở lại các «góc xếp» của tư tưởng Trung Quốc. Có các lãnh đạo Tầu, rồi luôn cả các chuyên gia Tầu lại nghĩ sai, hiểu xấu, vì không nghiên cứu kỹ phương pháp luận này, từ đó có vài kẻ buộc tội triết gia này là dùng tư tưởng Trung Quốc để «làm ăn» trong nghiên cứu, theo kiểu «mượn đầu heo nấu cháo», đây là một thái độ rất hồ đồ, một hành vi rất «thiếu học» trong bối cảnh toàn cầu hóa học thuật hiện nay.
Xét người rồi phải nghiệm tới ta. ĐCSVN trong quá trình hành xử chính trị cũng có những lỗi lầm xem thường, xem thấp, xem rẻ đối với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Trong chiến tranh 1954-75, ĐCSVN cũng «bắt chước » kiểu «nước đôi» của Tầu, trước ủng hộ Khmers đỏ để có liên minh, cùng lúc bao che cho ông hoàng Sihanout để dùng đất Campuchia làm lãnh thổ quân sự; đây là chuyện mà Pol Pot đã biến thành «hận đời, oán kiếp tận xương tủy» trong chính sách triệt để chống Việt Nam của hắn, 1975-1979. Tình hình hiện nay quá phức tạp tại Đông Nam Á với sự có mặt của tất cả các cường quốc xa gần với Thái Bình Dương, Việt Nam phải đủ bản lĩnh đạo lý để xây dựng một đạo đức trọn vẹn với các nước láng giềng, chống lại thái độ coi thường nước nhỏ, mà ngược lại chế tác ra từ giáo lý Việt tộc «trong ấm, ngoài êm», tạo dựng ra một luân lý đối tác quốc tế với láng giềng từ ngay nhân cách Việt: «Nắng ba năm, ta không bỏ bạn» nên mưa một ngày (ta-và-bạn) không bỏ nhau. Muốn làm được chuyện này thì phải làm được chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc trong nước trước đã! Gạt bỏ cho bằng được chuyện hai chiến tuyến Quốc-Cộng, vì cuộc chiến đã dừng hơn 40 năm nay. Muốn làm được chuyện này, thì bước đầu tiên là ĐCSVN phải buông bỏ hành vi độc đoán qua độc tài, độc quyền qua độc đảng, mà ĐCSVN bị thâm lậm quá lâu khi sống trong vòng kìm kẹp của ĐCSTQ-Đảng cộng sản Trung Quốc. Muốn làm chuyện này, thì ngay trên thượng nguồn tư duy chính trị các lãnh đạo của ĐCSVN phải nhận ra về mặt lý luận: chuyên chính không thể sánh đôi cùng biện chứng, thuyết Duy Vật biện chứng của Marx không quan hệ gì tới hệ thống chuyên chính độc đảng kiểu Lénine làm ra, rồi sau đó Staline lại tẩm thêm «độc tố» vào, để Mao về đám đàn em của hắn trong đảng cộng sản Trung Quốc mài giũa thêm bén để giết các phong trào xã hội và các đảng phái dân chủ tại Trung Quốc. Chuyên chính đưa xã hội vào độc đạo, đưa nhân loại vào một con đường tồi hẹp chỉ có một chiều, nó còn lại đóng cửa tất cả các chân trời. Chỉ vì cái độc sợ cái đa! Ngược lại thì biện chứng bắt ta muốn hiểu phải đối chiếu, có đối chiếu thì có đối kháng, xử lý các đối kháng thì phải qua phản biện. Không có phản biện thì không có đối thoại giữa lý thuyết và thực tế, không có trao đổi giữa lý luận và cuộc sống, không có cầu nối giữa mô hình (thuyết) và kinh nghiệm (sống). Ngược lại, chuyên chính áp đặt độc tài, lại bắt dân sùng bái độc tài này, thì đây là quy trình nô lệ hóa chính kiến, hợp thức hóa tà kiến. Nô lệ hóa chính kiến tức là nô lệ hóa tư tưởng, như vậy là ép cuộc sống đa dạng vào khung, tức là vào tù, và đây không phải là giải phóng, mà là nô bộc hóa nhân sinh. Như vậy, chúng ta phải cùng nhau đưa ra một kết luận là năm 1975, miền Nam không được giải phóng, mà là chịu sự nô lệ hóa tư tưởng, một tư tưởng chuyên chính nhưng bất tài, nên nó lụn bại từ kinh tế tới xã hội, từ văn hóa tới giáo dục, từ công nghệ tới công thương…những thất bại này làm Việt tộc mất sinh lực, kém thể lực, thấp trí lực trước họa xâm lăng của Tầu. Nhưng cũng có một loại chuyên chính nhưng không bất tài, chuyên chế với minh chủ, khai sáng nhân sinh qua nhân trí, đó là trường hợp của Đặng Tiểu Bình, đã đưa đất nước Trung Quốc ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu chỉ trong vòng 20 năm, vỏn vẹn một thế hệ. Trong cái thiên hạ mênh mông, trong cái bá tánh thênh thang như lục địa Trung Hoa, tìm ra được minh quân hay minh chúa, vừa thống nhất được đất nước, vừa thăng hoa được dân tộc, thật là đáng phục. Xem lại Việt Nam, một đất nước gọn hơn, một dân tộc thuần hơn, vì có cùng một văn hóa, một ngôn ngữ, một lịch sử, từ một «bào thai», cùng là đồng bào, nhưng cả hơn ba thế kỷ qua tại sao Việt tộc không tìm ra được một minh quân, một minh chủ, một minh chúa, trong lúc chờ đợi một nền dân chủ vững với một nhân quyền bền? Câu hỏi được đặt ra cho mọi người Việt, đừng để chuyện ý thức hệ chuyên chính, đừng để chuyện hận thù trong cuộc nội chiến vừa qua, xen vào rồi che lấp câu hỏi này. Mà một phần câu trả lời nằm ngay trong dân tộc tính mà mỗi người Việt đã trao truyền một cách có ý thức, qua tàng thức, lẫn vô thức, từ thế hệ này qua thế hệ khác: tại sao chúng ta không «thăng hoa» (hay «ngóc đầu lên») được như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapour, Trung Quốc?
Ban cao học Châu Á mà tôi làm giám đốc từ 20 năm nay, có một chuyện lạ là mỗi năm số sinh viên Trung Quốc ghi danh và thi vào học khá đông, số lượng gấp 10 lần số sinh viên Việt Nam, khi thi vấn đáp về phương án hướng nghiệp thì câu hỏi cuối của ban giám khảo là: «học xong bạn muốn làm gì?», sinh viên Việt Nam trả lời dễ dàng: «đi xin việc làm», tức là đi làm công. Còn sinh viên Trung Quốc, thì một người trong hai người, khoảng 50% trả lời khác: «xin đi làm công trước, sau vài năm sẽ ra làm chủ!», mỗi năm đều có loại trả lời này, loại lý luận nghề nghiệp này, ngay cả các sinh viên Âu Châu cũng không có chí hướng làm chủ cao như các sinh viên Trung Quốc. Và trong 20 năm qua, tôi chỉ nghe được một lần, một nữ sinh viên Việt Nam, người Hạ Long, trả lời là sẽ «tìm cách làm chủ, qua sự giúp đỡ của cha mẹ đang làm chủ». Làm chủ và làm công, hai nhân sinh quan nghề nghiệp, hai thế giới quan kinh tế, hai vũ trụ quan nhân sinh, hoàn toàn khác nhau, một trời, một vực! Nhiều lần, tôi gặp riêng các sinh viên Việt Nam để tâm sự với họ là người Hoa họ có hai cá tính rất khác nhau, mà họ kết hợp được: thứ nhất là «thức khuya, dậy sớm», thứ nhì là «có gan làm giầu», tại sao chúng ta có cái thứ nhất như họ là «thức khuya, dậy sớm» với «một nắng, hai sương», với «dầm mưa, dãi nắng» để lao động, mà chúng ta lại không có cái thứ hai: «làm công rồi làm chủ», rồi «có sức chịu, có sức liệu» trong đầu tư, trong thương mại, trong kinh tế? Bao năm qua, tôi càng thấy rõ: các sinh viên Việt Nam tâm sự: «đi du học bên phương Tây là dùng bằng cấp để tiến thân» (trong chuyện «làm quan») qua cơ chế mà ĐCSVN đã vạch ra cho họ. «lấy bằng để vinh thân», chớ họ «không (muốn) có tự chủ để làm chủ», chuyện này đã lập đi lập lại qua bao thế hệ, có sinh viên còn nói thẳng là họ: «đi học nhưng không thiết tha gì muốn trở thành trí thức», tức là nghiêm túc trong học thuật, liêm sỉ trong trong kiến thức, liêm minh trong khoa học.

Nhân Việt Nghiệm Nhân Trung (P3)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này