Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P12)

Chủ thể hành tác truyền thông
Trong toàn cầu hoá xuất hiện thực tế đa mạng hoá mà đồ hình của nó là tính liên minh giữa các mạng xã hội bằng đa ngôn ngữ (một mạng với nhiều ngôn ngữ); bằng đa giáo dục (một mạng giành cho nhiều thế hệ); bằng đa đối kháng (một mạng nhắm nhiều đối thủ). Đa mạng hoá truyền hơi cho liên mạng hoá: chuyện ít hơi, ngắn tiếng trước tham quan, cửa quyền tạo ra áp bức và bất công tại địa phương sẽ được ra thanh thiên bạch nhật trong toàn cầu hoá. Vì địa lý mở của toàn cầu hoá truyền thông là tháo biên giới để thoát cơ chế. Từ đây, công pháp quốc tế được xây dựng trên công trình liên đới giữa luật pháp có nhân quyền, có dân chủ lại biết liên kết qua mạng hoá theo quy luật quốc tế hoá địa phương. Qua cơ chế, chính quyền bảo quản lãnh thổ quốc gia bằng biên giới: một lãnh thổ được khung bởi biên giới tức là được quản lý, bảo vệ, kiểm soát bởi chính quyền, nhưng toàn cầu hoá vượt nội dung và nội chất của biên giới bằng tin học truyền thông. Toàn cầu hoá vượt biên giới của địa lý, đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: biên giới bị ảo hoá trong giao lưu tin tức. Các sự cố truyền thông phi biên giới cũng là biến cố về nội dung và nội chất về pháp luật quốc gia. Vì trước khi xuất hiện toàn cầu hoá, hệ thống luật dựa trên luật quốc gia, và quá trình toàn cầu hoá hiện nay phát triển trên hệ thống truyền thông phi quốc gia nhưng không phi pháp. Nội dung và nội chất mới của hệ thống truyền thông phi quốc gia nhưng không phi pháp tháo dần lãnh thổ khỏi cơ chế, gỡ dần cơ chế khỏi địa lý quốc gia, trực tiếp làm thay đổi nhân sinh quan và thế giới quan về luật pháp quốc gia. Toàn cầu hoá tạo ra nhiều quan niệm mới về quốc gia: lãnh thổ, biên giới, cơ chế, luật pháp; qua thực tế di dân, du lịch, nhập cư, đầu tư … nơi mà kiến trúc của công pháp quốc tế dựa trên nền của nhân quyền, được cho bởi mái của dân chủ. Toàn cầu hoá tạo ra giao lưu, làm sáng tỏ là có những quốc gia mở hơn những quốc gia khác, mở cửa là định chuẩn quốc tế mới liên tục tạo ra những cạnh tranh mới giữa các quốc gia về mức độ và mật độ giao lưu, từ xuất cảnh tới nhập cảnh, từ truyền thông tới giao thông.
Mức độ và mật độ giao lưu hàng hoá, sản phẩm vốn đầu tư, dịch vụ, tin tức… ngày càng chuyên môn với chuyên ngành mới ngày càng kỹ thuật hoá, sẽ đào thải những lãnh thổ, biên giới, cơ chế, luật pháp khép kín. Toàn cầu hoá xây dựng lâu dài trong khung và nền dựa trên công pháp quốc tế để tới dần công pháp toàn cầu, vượt kinh nghiệm quốc tế liên quốc gia, để tới công pháp thống nhất toàn bộ. Tình trạng liên minh song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia bằng những thoả hiệp tạm thời không dựa trên khung và nền chung còn kéo dài, và luôn được điều chỉnh sau các cuộc suy thoái, khủng hoảng lớn về chính trị và kinh tế theo hướng công pháp thống nhất toàn bộ. Các toà án quốc tế sẽ làm trọng tài trên những lĩnh vực khác nhau trong lúc chờ đợi khung và nền chung của công pháp toàn cầu. Project on international Courts and Tribunal: hiện nay tập hợp hơn 130 cơ chế quốc tế phân xử những vấn đề rất khác nhau từ nhân quyền tới luật hàng hải, từ thương mại tới môi trường…. Toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến tư, có chuyên môn cao, có lý luận vững, nên số ý kiến, kinh nghiệm, lý luận, lập luận không quốc gia, mà của các chuyên gia ngày được chú ý.
*Các quốc gia có kinh tế mạnh chủ động lấy sáng kiến.
*Các liên minh Bắc Mỹ và Âu Châu khai thác triệt để kiến thức của chuyên gia quốc tế.
*Các quốc gia từ chối hội nhập vào toàn cầu hoá thường bị lúng túng vì thiếu kiến thức công pháp quốc gia.
*Các quốc gia dù còn yếu về kinh tế nhưng biết đầu tư vào các chương trình đào tạo các chuyên gia về công pháp quốc tế đã bắt đầu có chỗ đứng trong lý luận hội nhập, lập luận độc lập là hai hệ quả để bảo vệ quyền lợi của dân tộc.
Công pháp quốc tế có nghĩa vụ xây dựng các công trình liên đới, luật pháp liên kết. Toàn cầu hoá làm tăng về số lượng các vấn đề về công pháp và luật pháp với sự tăng trưởng không ngừng về giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư, kiến thức truyền thông…. Toàn cầu hoá làm tăng về số lượng các công trình xây dựng quốc tế, đòi hỏi phải có công pháp quốc tế, rồi toàn cầu về luật xây dựng liên quốc gia, một vấn đề hoàn toàn mới trong nhân sinh quan luật pháp quốc gia. Một lần nữa: các quốc gia có kinh tế mạnh chủ động lấy sáng kiến, các liên minh Bắc Mỹ và Âu Châu khai thác triệt để kiến thức của chuyên gia, các quốc gia từ chối hội nhập vào toàn cầu hoá thường bị lúng túng vì thiếu kiến thức công pháp quốc gia…. Thí dụ: FIDIC- Liên Đoàn Quốc Tế Các Kỷ Sư Tư Vấn; FIEC- Liên Đoàn Công Nghiệp Xây Dựng Âu Châu; FIEC- Viện Kỷ Sư Dân Sự; ENAA- Hội Phát Triển Kỹ năng Xây Dựng Nhật Bản; AIA- Viện Kiến Trúc Hoa Kỳ. Những cơ chế tư này có đóng góp lớn trong việc tìm ra các mô hình, các quy lệ mới cho công pháp toàn cầu. Ở đây, đã có sự chuyển quyền từ lĩnh vực công qua lĩnh vực tư; khung và nền của công pháp toàn cầu mới không còn dựa trên quyền thế của một chính phủ; công pháp toàn cầu vừa ở ngoài, vừa ở trên chính quyền, lãnh thổ, biên giới một quốc gia. Toàn cầu hoá là quá trình song đôi: kinh tế hoá mạng và mạng hoá kinh tế, biến tự do giao lưu hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sản xuất, tiêu thụ… thành thực tế trong sinh hoạt kinh tế mở. Bối cảnh mới của thế giới, như vậy sẽ theo tổ chức đôi: kinh tế sinh hoạt vật thể và kinh tế phi vật thể của mạng, mà kinh tài đóng vai trò động não và kích thích trong đầu tư và giao lưu toàn cầu. Một doanh nghiệp có chỗ đứng trên mạng có thể vừa tư nhân riêng rẽ, vừa toàn cầu hoá trong hệ truyền thông và giao lưu, được đánh giá, phê bình, nhận định bằng tiêu chuẩn quốc tế. Mạng hoá sinh hoạt kinh tế quốc tế và hoá mạng sinh hoạt kinh tế tư nhân làm thay đổi các bậc thang của các định nghĩa cũ về: địa phương, vùng, miền, quốc gia, quốc tế…. Một doanh nghiệp trên mạng bây giờ vừa địa phương, vừa quốc tế; một hội đoàn bây giờ vừa quốc gia, vừa toàn cầu; một khu vực của mạng vừa cục bộ, vừa liên đới với các mạng khác. Như vậy, toàn cầu hoá được định nghĩa như sự liên minh và liên đới giữa hai quá trình: mạng hoá và hoá mạng, mà hiệu quả và hiệu lực dựa trên sự giao lưu và trao đổi để tạo ra những luồng mới, mạch mới về thông tin, truyền thông với tầm cỡ toàn cầu. Quan hệ giữa sinh hoạt xã hội và sinh hoạt mạng toàn cầu dựa trên khả năng của kỹ nghệ truyền thông đóng vai trò chủ chốt nhưng luôn biến động theo bước tiến của khoa học kỹ thuật. Sinh hoạt xã hội hàng ngày như vậy ngày càng lệ thuộc sinh hoạt mạng toàn cầu, tạo ra trong thực tế một hệ môi sinh xã hội mà cơ chế, hệ thống, phân công trong sinh hoạt ngày càng phụ thuộc vào kỹ nghệ truyền thông. Sự giao thoa giữa quan hệ xã hội thực và trực tiếp người với người và quan hệ qua mạng bằng môi giới của kỹ nghệ truyền thông làm tăng tính lệ thuộc-phụ thuộc của hai bên, tác động qua lại lẫn nhau; nhưng mỗi bên đều phải giữ đặc thù, đặc điểm, đặc tính của mình, vai trò bên này không thay thế được chức năng bên kia. Nên xem xét lại chức năng của kỹ nghệ truyền thông trong toàn cầu hoá:
*Kỹ nghệ truyền thông hiện nay là chìa khoá của tính linh động di chuyển của các vốn đầu tư.
*Kỹ nghệ truyền thông hiện nay là cầu nối giữa các doanh nghiệp, xoá đi khoảng cách địa lý đang có.
*Kỹ nghệ truyền thông hiện nay là chủ trì trong khâu hoá giải hành chính nặng nề của cửa quyền.
Mạng hoá sinh hoạt, mạng hoá trao đổi, mạng hoá hợp đồng, mạng hoá hợp tác nâng vai trò kỹ nghệ truyền thông vào việc giải quyết về mặt kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo ba vấn đề then chốt của toàn cầu hoá: tin tức, khoảng cách, vận tốc. Toàn cầu hoá truyền thông biến mạng thành sinh hoạt trung tâm của sinh hoạt xã hội và kinh tế, trong đó vận tốc truyền tin quyết định tính năng động của dữ kiện. Các sự cố, các cuộc hẹn tập thể, các sinh hoạt cộng đồng, các cuộc biểu tình được hẹn họ, trao tin trên mạng xã hội. Có chỗ đứng trong mạng sẽ được chuyển tin, đưa tin, nhận tin; còn đứng ngoài mạng sẽ bị cô lập, hủ hoá, loại trừ. Bất động ngoài mạng coi như bị bỏ quên và chuyển động trong mạng được tăng mạnh về ảnh hưởng. Nhưng mạng truyền thông chỉ là công cụ của thông tin; quá trình tư duy, sáng tạo của con người luôn đòi hỏi kỹ nghệ truyền thông những kỹ thuật thích hợp với khả năng sáng tạo của mình. Ở đây, các hệ vấn đề văn hoá vẫn tồn tại. Con người tạo ra mạng truyền thông không phải là con người chung chung, mà là con người của văn minh, sản phẩm và hậu quả của các văn hoá tập thể, cộng đồng, quốc gia…. Giao lưu tin tức hoặc kiến thức của con người là giao lưu giữa các văn hoá, trong đó mạng chỉ đóng vai trò công cụ kỹ thuật. Như vậy nếu có dị biệt về văn hoá, muốn hiểu nhau phải có môi giới trung gian qua ngôn ngữ, tư tưởng, học thuật, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật… đó là những mả số cũng do con người của tư duy sáng tạo ra chớ không do mạng chế tạo ra. Nhưng trong thực tế những môi giới trung gian mới xuất hiện để làm cầu nối giữa các văn hoá đa số nằm trong mạng, không nằm ngoài mạng. Từ đây sinh ra một văn hoá môi giới trung gian mới với sự pha trộn giữa tư duy con người và kỹ năng của khoa học truyền thông. Mạng vẫn là nơi trao đổi, chuyển tin, kết cấu các kinh nghiệm mới về văn hoá. Toàn cầu hoá truyền thông làm xuất hiện các dữ kiện mới về lãnh thổ: có những địa phương năng động, có những địa phương thụ động; có những địa phương mở rộng, có những địa phương khép kín; có những địa phương hội nhập, có những địa phương bất cập. Toàn cầu hoá giao lưu văn hoá làm xuất hiện các dữ kiện rất mới về nhập mạng: có những địa phương vượt được cơ chế quốc gia, có những địa phương không vượt được cơ chế quốc gia; có những địa phương có vai vóc quốc tế, có những địa phương chỉ có tầm cở địa phương; có những địa phương vận động được chính trường quốc tế, có những địa phương không vượt khỏi được vùng miền của mình. Những địa phương, thành phố, đô thị có vai vóc quốc tế trong toàn cầu hoá truyền thông và giao lưu văn hoá có thể vượt được sự chuyên chế, chuyên quyền của cơ chế hay chế độ. Quốc tế hoá địa phương trong toàn cầu hoá hiện nay là phạm trù hoàn toàn mới để định nghĩa lại nội dung và nội chất về lãnh thổ quốc gia.
Nhân tính hóa toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá cũng cho chúng ta một viễn ảnh đạo lý của nhân tri hoá, nơi mà hoài bảo có thể thành khả thi, nơi mà chủ quyền quốc gia không còn chỉ nằm trong tay của một tập đoàn, một đảng phái…mà theo một quy luật chung được nhân đạo hoá qua nhân quyền và dân chủ. Có nhân tính hóa vì có pháp lý chung, có toà án chung, có nhân lý hóa chung vì có giá trị chung, có nhân đạo chung, có nhân phẩm chung: một nhân tính hóa chung trong quá trình nhân loại hoá trên nền chung của nhân đạo hoá dựa trên thềm chung nhân phẩm hoá, có chỗ dựa nhân nghĩa hoá trong mọi quan hệ quốc tế. Chính quá trình này sẽ làm bá quyền Bắc Kinh, bành trướng Trung Quốc lùi bước trong chuyện trộm, cắp, cướp, giựt các đảo, biển, đất của Việt tộc. Quá trình này không nằm trong con tính thông minh về chiến lược quốc tế của ĐCSVN trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Những lý luận này sẽ được định nghĩa từ cách sử dụng dữ kiện để hiểu sự vận hành liên quốc gia, hiểu sự vận hành này để nắm cái lý của các mô hình siêu quốc gia, từ đó giải thích các quyền lợi của từng quốc gia, từng địa phương, từng thành phố, từng tập đoàn, từng tác nhân… đang tìm chỗ đứng đồ hình mới của toàn cầu hoá. Những lập luận sẽ được định nghĩa từ luận giải về các liên minh chiến lược, về các tương quan lực lượng hiện nay, mà mục đính là tìm ra những định hướng, những sách lược thích hợp cho dân tộc mà giá trị đạo lý và luân lý vẫn là cốt lõi cho một cuộc sống có nhân đạo, bảo vệ được nhân cách cho mỗi người, duy trì được nhân phẩm cho đời sau. Duy lý của kinh tế toàn cầu phải dựa trên nhân lý và nhân tri. Toàn cầu hoá là một chuyên ngành mới, nhưng đã có phương pháp luận riêng, lý thuyết luận riêng, khoa học luận riêng. Các nhà chuyên gia, các nhà tư vấn, các nhà nghiên cứu không thể tiếp tục lý giải một hệ vấn đề mới với lối tư duy cũ. Các vị lãnh đạo từ quốc gia tới quốc tế, ngay cả các chuyên viên quản lý địa phương, cũng cần nắm các quy luật mới của toàn cầu hoá, vì đây là bản đại hoà tấu mới của nhân sinh, tỉnh táo tham dự thì tồn tại, ngoa chấp đứng ngoài sẽ bị loại trừ.
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này