Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P11)

Toàn cầu luận: luận chứng hay luận thuyết?
Liên minh các thành phần bị thiệt thòi, sẽ sinh ra hệ đồng hội, đồng thuyền toàn cầu, và hệ đồng hội, đồng thuyền toàn cầu nối các địa phương cùng số phận trong chiến lược chung sức đấu tranh toàn cầu; rồi hệ chung sức đấu tranh qua các quốc gia, qua các châu lục, có cùng một viễn ảnh cùng nhau bảo đảm nhân quyền toàn cầu. Lý luận này không thuộc luận thuyết cộng sản chủ nghĩa với chiến thuật lập đảng, với kinh nghiệm giành chính quyền quốc gia, mà nó dựa trên lập luận của dân chủ toàn cầu trong hệ đa dạng về văn hoá, đa nguyên về chính trị toàn cầu. Toàn cầu hoá luôn được củng cố bởi các liên minh giữa các quốc gia cùng một châu lục, trong đó có vai trò chủ đạo của mạng liên chính phủ, các liên minh này có các lãnh thổ chung, có các luật chung, có các quy chế chung làm sức bật để vượt các rào cản về biên giới giữa các quốc gia. Các liên minh này ngày càng đóng những vai trò chủ quyết trong các cơ chế toàn cầu hoá hiện nay: OCM-Organisation du Commerce Mondial, NAFTA- America Free Trade Agreement, GATT General Agreement on Tariffs and Trade, FMI- Fond Monétaire International…. Các liên minh này là tiền thân của các công pháp quốc tế mới, chúng cũng là «mặt chìm» của các liên minh lãnh đạo, các liên minh chuyên gia, có sinh hoạt chính thức và có sinh hoạt bán chính thức. Các liên minh giữa các chính phủ được quản lý bởi các liên minh lãnh đạo, các liên minh chuyên gia, họ có vai trò tích cực trong việc chuẩn bị các quyết nghị, các thoả hiệp quốc tế mới. Trước những khủng hoảng, suy thoái do kinh tế ảo của tư bản tài chính sinh ra, vai trò chủ quyết của các liên minh quốc gia được quản lý bởi các các liên minh lãnh đạo, các liên minh chuyên gia càng tăng trong quá trình tìm các công pháp quốc tế mới. Vai trò chủ quyết của các mạng này ngày càng then chốt để tạo ra các mô hình về tự do cạnh tranh, về kế toán thế giới. Tính chuyên môn hoá và chuyên ngành hoá sẽ ngày càng xa sự kiểm soát của các cơ chế thuần tính quốc gia. Phân tích về toàn cầu hóa không thể không phân tích sự đối chọi, sự xung đột giữa toàn cầu tính và quốc tộc tính, tiềm tàng trong định nghĩa giữa tư lợi, quyền lợi và công lợi.
Tại đây, nhận định thế trung tâm hoặc thế ngoại biên của một quốc gia, phải dựa trên một phân tích mới về nội lực siêu quốc gia của các tập đoàn quốc tế luôn khai thác tiềm năng địa phương, từng vùng, từng miền để đóng đô, rồi bám trụ để đầu tư rồi để khai thác. Chỗ ngoại biên hay thế trung tâm trong toàn cầu hoá về trao đổi thông tin qua khoa học truyền thông với công cụ kỹ thuật được tư hữu hoá, tạo ra hàng loạt những tác nhân mới trong sinh hoạt quốc tế và xã hội, trong đó các chủ thể địa phương tìm được tiếng nói và thế đứng trong các mạng tin tức quốc tế với sự hỗ trợ trực tiếp của các hội đoàn phi chính phủ (ONG). Toàn cầu hoá tạo ra một quá trình mới: phi quốc hữu hoá các mạng thông tin, các cơ chế truyền thông của nội địa quốc gia, làm xuất hiện các mạng cốt lõi (site-clé) còn gọi là mạng chìa khoá, tập hợp những mạch thông tin chủ yếu không qua sự kiểm soát của chính quyền. Toàn cầu hoá luôn dựa trên quần chúng hoá internet để công chúng hoá các biến cố địa phương về môi trường, y tế, thiên tai…. Nhất là các bất công và bất bình đẳng xã hội, không tôn trọng nhân quyền. Chuyện địa phương không còn bị coi là chuyện ngoài lề, nó một sớm một chiều biến thành chuyện trung tâm sức thuyết phục của nó trong đạo lý của nhân loại, luôn tôn trọng công bằng và công lý. Toàn cầu hoá gạn lọc chủ quan địa phương qua đòi hỏi và đấu tranh; rồi khách quan hoá nó trong điều kiện nhân quyền phổ quát; để sau cùng thế giới hoá một thực tế địa phương mà các chủ thể địa phương không nhất thiết phải di chuyển hay xê dịch. Toàn cầu hoá nối ba mạng thông tin vào cùng một mạng: mạng truyền thông thế giới (internet), mạng truyền tin địa phương (quần chúng và báo chí), mạng giao lưu xã hội (phong trào, hội đoàn); ở đây cơ chế truyền thông quốc gia không còn đóng vai trò chủ chốt trong quá trình quốc tế hoá tin tức nữa. Công cụ đấu tranh của những người bị áp bức không còn nhất thiết phải bạo động chính trị hay xã hội, mà có thể chuyển qua khoa học truyền thông, trong đó tin tức chính xác vừa là dữ kiện, vừa là chứng từ. Toàn cầu hoá đưa lên mạng truyền thông những hệ vấn đề siêu quốc gia: di dân và nhập cư; dịch truyền nhiễm và y tế; môi trường và ô nhiễm; nhân quyền và quyền tỵ nạn; đấu tranh phụ nữ và bảo vệ thiếu nhi…. Xã hội dân sự từ khung quốc gia sẽ dần dà mang tầm vóc lớn hơn trong toàn cầu hoá, với những sinh hoạt mới sẽ ra đời: văn hoá và giáo dục về nhân lý, thông tin và truyền thông về nhân tri. Từ đó, các hệ quả mới ra đời, làm thay đổi các khuôn khổ cũ của xã hội dân sự: các quyền lực độc đảng sẽ bị thu hẹp lại, các cửa quyền sẽ bị các mạng xã hội canh giữ. Một địa lý toàn cầu muôn hình vạn trạng thường trực áp đảo các quyền lực phản dân chủ. Mạng xã hội trở thành chủ tác, tác động rộng khắp với tầm vóc quốc tế, đưa chuyện ngoại biên thành chuyện trung tâm. Toàn cầu hoá làm co giãn -và co giật- các định nghĩa về lý lịch, bản sắc, có thể biến chuyện cộng đồng thành chuyện đại đồng. Toàn cầu hoá đưa định nghĩa về chủ thể qua mật độ và cường độ bằng lý luận và lập luận trên dữ kiện mới trong xã hội dân sự: du lịch không thể nhắm mắt trước các cảnh nghèo đói, bất công mà nạn nhân là dân đen và dân oan; phát triển công nghiệp không thể bịt tai trước thực tế của ô nhiễm; tăng trưởng kinh tế không thể câm miệng trước thực trạng bóc lột nhân công.
Xã hội dân sự toàn cầu mang dân chủ tính rất năng động trong tin tức, truyền thông với nhiều nấc thang về thông tin (hình ảnh, điều tra, phỏng vấn…), với nhiều cách nối mạng về tổng kết các dữ kiện (tư liệu lịch sử, hội thảo quốc tế, chứng từ qua đa văn hoá và đa ngôn ngữ). Toàn cầu hoá vừa là mức độ, cường độ sinh hoạt, vừa là vai vế, tầm vóc của xã hội dân sự. Những ai không được có quyền đi lại, du lịch, bây giờ đã có tiếng nói qua mạng xã hội. Những kẻ không được quyền đi lại du lịch, bây giờ có thể tham gia vào các phong trào dân sự toàn cầu. Những người tham gia vào các phong trào dân sự toàn cầu, bây giờ có thể trao đổi với nhau trên mạng xã hội quốc gia và quốc tế. Liên minh luận trong mạng xã hội trở thành liên kết luận bằng những hành động hoàn cầu cụ thể qua các mạng. Sung lực mới của các thiểu số bị áp bức tới từ toàn cầu hoá truyền thông tạo tiếng nói trên mạng cho các thiểu số bị áp bức, kể cả các dân tộc đã mất lãnh thổ và chính quyền, như trường hợp của Tây Tạng, được cả thế giới chú ý. Hiện trạng mới là các chính quyền địa phương và quốc gia không dám thẳng tay đàn áp các thiểu số bị áp bức; vì bối cảnh thế giới hoá tin tức đã làm được chuyện toàn cầu hoá dân chủ thuận lý theo hướng nhân quyền. Xã hội dân sự toàn cầu làm được những áp lực mới chung quanh Liên Hiệp Quốc qua các mạng và các cao trào dân sự quốc tế được sự hỗ trợ trực tiếp của tòa án quốc tế. Các tổ chức quốc tế nhân quyền (Amnesty International, Ligue du Droit de l’homme…) trực tiếp đầu tư vào thượng tầng và hạ tầng tin học truyền thông để tăng độ rộng và sâu của mạng xã hội trên khắp thế giới. Các tổ chức phi chính phủ (ONG) dùng sinh hoạt dân chủ và nhân quyền để đầu tư vào các phương án phát triển y tế, giáo dục, thương mại, bảo vệ môi trường…. Các tổ chức đấu tranh bảo vệ các thiểu số bị áp bức được sự hỗ trợ kinh tài của các tổ chức phi chính phủ, thí dụ: LaNeta nhận tài trợ của The Institute for Global Communication (IGC), từ 1993, LaNeta đã trở thành hội viên của Association for Progressive Communication (APC). Các cuộc đấu tranh địa phương và bảo vệ các thiểu số bị áp bức vừa là nhân, vừa là quả cho sinh hoạt mạng toàn cầu về nhân quyền và dân chủ. Chuyện dựa nhau để tồn tại giữa địa phương và toàn cầu đã vượt ra khỏi khung lãnh thổ quốc gia. Toàn cầu hoá tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho chủ thể chính trị địa phương trên nhiều mật độ khác nhau khi sử dụng tin tức, thông tin, truyền thông:
*Tập hợp, tồn trữ, tổ chức, giới thiệu tin tức theo khoa học truyền thông hiện đại.
*Liên minh các mạng nhân quyền, môi trường, dân chủ… bằng quản lý nhà băng dữ kiện (banque de donnés) của Human Rights Internet, Greenpeace, Oxfam International.
*Biến mạng truyền thông (internet) thành mạng báo động (Urgent Action Network) của Amnesty International thường trực trên thông tin quốc tế mà báo chí hay hội đoàn đều có thể sử dụng được.
Kết luận phải có trong diễn biến toàn cầu hóa là nơi nào có độc tài thì nới đó sẽ có đấu tranh dân chủ; nơi nào có độc tôn thì nơi đó sẽ có đấu tranh nhân quyền; nơi nào có độc trị thì nơi đó sẽ có đấu tranh tự do; nơi nào có độc đảng thì nơi đó sẽ có đấu tranh đa nguyên.
Nhân tính hóa toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá cũng cho chúng ta một viễn ảnh đạo lý của nhân tri hoá, nơi mà hoài bảo có thể thành khả thi, nơi mà chủ quyền quốc gia không còn chỉ nằm trong tay của một tập đoàn, một đảng phái…mà theo một quy luật chung được nhân đạo hoá qua nhân quyền và dân chủ. Có nhân tính hóa vì có pháp lý chung, có toà án chung, có nhân lý hóa chung vì có giá trị chung, có nhân đạo chung, có nhân phẩm chung: một nhân tính hóa chung trong quá trình nhân loại hoá trên nền chung của nhân đạo hoá dựa trên thềm chung nhân phẩm hoá, có chỗ dựa nhân nghĩa hoá trong mọi quan hệ quốc tế. Chính quá trình này sẽ làm bá quyền Bắc Kinh, bành trướng Trung Quốc lùi bước trong chuyện trộm, cắp, cướp, giựt các đảo, biển, đất của Việt tộc. Quá trình này không nằm trong con tính thông minh về chiến lược quốc tế của ĐCSVN trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Những lý luận này sẽ được định nghĩa từ cách sử dụng dữ kiện để hiểu sự vận hành liên quốc gia, hiểu sự vận hành này để nắm cái lý của các mô hình siêu quốc gia, từ đó giải thích các quyền lợi của từng quốc gia, từng địa phương, từng thành phố, từng tập đoàn, từng tác nhân… đang tìm chỗ đứng đồ hình mới của toàn cầu hoá. Những lập luận sẽ được định nghĩa từ luận giải về các liên minh chiến lược, về các tương quan lực lượng hiện nay, mà mục đính là tìm ra những định hướng, những sách lược thích hợp cho dân tộc mà giá trị đạo lý và luân lý vẫn là cốt lõi cho một cuộc sống có nhân đạo, bảo vệ được nhân cách cho mỗi người, duy trì được nhân phẩm cho đời sau. Duy lý của kinh tế toàn cầu phải dựa trên nhân lý và nhân tri. Toàn cầu hoá là một chuyên ngành mới, nhưng đã có phương pháp luận riêng, lý thuyết luận riêng, khoa học luận riêng. Các nhà chuyên gia, các nhà tư vấn, các nhà nghiên cứu không thể tiếp tục lý giải một hệ vấn đề mới với lối tư duy cũ. Các vị lãnh đạo từ quốc gia tới quốc tế, ngay cả các chuyên viên quản lý địa phương, cũng cần nắm các quy luật mới của toàn cầu hoá, vì đây là bản đại hoà tấu mới của nhân sinh, tỉnh táo tham dự thì tồn tại, ngoa chấp đứng ngoài sẽ bị loại trừ.

Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P12)

Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này