Lao tạo hay lao nô
Toàn cầu hoá tạo ra một loại địa lý di dân quốc tế rộng, mang theo thảm họa đáng sợ cho Việt tộc; lao nô (nô lệ lao động) tại ngoại quốc và có thể ngay trên quê cha, đất tổ của chính mình, ngược lại với lao tạo (lao động sáng tạo) bằng chính khoa học, kỹ thuật, sản phẩm, văn hóa, nghệ thuật do mình tạo ra…. Lao nô nói thẳng là làm công (ở đợ và làm mọi) cho kẻ khác với điều kiện lao động tồi tệ nhất; ngược lại lao tạo là làm chủ từ sáng kiến tới sáng tạo, từ sản xuất tới tiêu thụ, từ tổ chức tới vận hành, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan… đã thành công. Họ cùng nôi văn hiến tam giáo với Việt Nam, tại sao lãnh đạo ĐCSVN không đi theo con đường lao tạo của họ? Không trả lời rành mạch câu hỏi này là bất lý trong lãnh đạo, không phân tích minh bạch vấn đề này là bất chính. Nguồn nhân lực luôn là luồng ngoại tệ cho các tổ chức lao nô bất chính, buôn rẻ sức lao động của đồng bào ta cho các nước láng giềng, mà thân phận của người Việt rất tồi tại các nước nhận xuất khẩu lao động Việt Nam, đồng bào mình bị coi thấp, lại thêm cảnh cư trú bất hợp pháp, chóng chầy mang theo các tệ nạn xã hội, mà bằng chứng là tại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đồng bào chúng ta phải nhận chịu những cách đối xử kỳ thị nhất. Một chính phủ mà không giải quyết được vấn nạn này thì chỉ nên từ chức, một chính quyền mà không xử lý được họa nạn này thì chỉ nên từ nhiệm, một thể chế mà không hóa giải được quốc nạn này thì chỉ nên buông bỏ vị thế lãnh đạo của mình. Toàn cầu hoá mang theo các cấu trúc ngầm của thị trường di dân, sử dụng lao động theo hệ liên quốc gia; trong đó bộ phận chìm là xuất khẩu lao động, đáp ứng về số lượng công nhân trình độ chuyên môn thấp, lương bổng rẻ. Xuất khẩu lao động luôn bị thao túng bởi các đường dây buôn lậu lao động và nhân công; khai thác những sơ hở về luật pháp giữa quốc gia di dân và quốc gia nhập cư. Xuất khẩu lao động hợp pháp hay không hợp pháp đưa tới lao nô, tại đây cần có một quyết tâm lãnh đạo chính trị Việt Nam: biến lao nô thành lao tạo, tham gia trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu với nhân phẩm lao tác, nhân cách giáo lý Việt tộc, biết tự chủ vì biết tự trọng. Thị trường di dân và xuất khẩu lao động dựa trên ba nguồn nhân lực:
*Luồng di dân và nhập cư giữa các quốc gia có quan hệ lịch sử với chế độ thực dân, giữa nước cai trị và nước bị trị.
*Luồng di dân và nhập cư giữa các quốc gia, các địa phương theo nhu cầu kinh tế đặc thù giữa nơi đi và nơi đến.
*Luồng di dân và nhập cư được tạo ra từ những hệ thống kinh tế toàn cầu, trực tiếp kích thích các mạng lưới ngay tại các nước chậm tiến để tuyển dụng lao động.
Có ít nhất là ba đường dây tuyển dụng lao động: do chính quyền nơi đi và các doanh nghiệp nơi đến tổ chức qua trung gian các cơ quan xuất khẩu lao động chuyên môn; do chính quyền nơi đi và các nước công nghiệp nơi đến tổ chức dựa trên quan hệ lịch sử giữa hai quốc gia; do các chính quyền của các nước láng giềng trong cùng một khối liên minh kinh tế trong vùng.
Sau khi hội nhập, mỗi cộng đồng nhập cư thường đủ tự chủ để tự tổ chức các đường dây tuyển dụng lao động, trực tiếp tham gia vào đồ hình sinh hoạt kinh tế toàn cầu. Chúng ta cũng nên nghiên cứu sâu các khoảng cách giữa di dân và nhập cư trong địa lý kinh tế toàn cầu:
*Xuất khẩu lao động khoảng cách gần giữa các nước láng giềng trong cùng một khối liên minh kinh tế: quan hệ ngang hàng về trao đổi chuyên môn.
*Xuất khẩu lao động khoảng cách xa giữa các nước đã phát triển và các nước chậm phát triển trong quan hệ bất bình đẳng Bắc phát triển-Nam chậm tiến.
*Xuất khẩu lao động khoảng cách mới giữa các nước chậm phát triển và các nước Trung Đông nắm sản xuất dầu hoả mà quan hệ dựa trên giá hạ của nhân công.
Toàn cầu hoá để lộ các bất bình đẳng, các bất công vừa theo chiều rộng, vừa theo chiều cao, vì toàn cầu hoá trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kinh tế vùng giữa các nước láng giềng có trình độ phát triển chênh lệch nhau. Nơi mà Châu Á Thái Bình Dương là một thí dụ linh động: Nhật Bản không nhận nhập cư trong lịch sử phát triển kinh tế của mình, cùng lúc đóng vai trò đầu tàu giúp các nước Đông Nam Á chậm phát triển, mà không quên sử dụng thị trường nhập cư lao động của các nước Đông Nam Á trong công nghiệp, cả trong dịch vụ gia đình với nhân công của Philippine. Một nước đóng kín như Nhật Bản nhưng khi muốn trở thành chủ trì trong hệ thống đầu tư tại Đông Nam Á đã trở thành một không gian mở của thị trường nhập cư lao động. Như vậy, quốc tế hoá kinh tế đi cùng mở cửa cho di dân và nhập cư; đi cùng mở cửa cho tiếp thu đa văn hoá; đi cùng mở cửa cho tự do đi lại. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho:
*Sự phát triển của thị trường lao động với chuyên môn cao, với chuyên viên lương bổng cao, đặc biệt trong quản lý truyền thông. *Sự suy hoá của thị trường lao động không chuyên môn, với mức lương thấp của lực lượng nhân công không chuyên nghiệp.
*Sự lệ thuộc ngày càng cao của các nước sản xuất lao động các lực lượng không chuyên nghiệp đối với các quốc gia nhận nhập khẩu lao động trong quá trình chuyên môn hoá hiện nay. Xuất khẩu lao động đặt ra hai vấn đề: nếu thuận lý thì xuất khẩu lao động giải quyết vấn đề thất nghiệp, và ngoại tệ từ xuất khẩu lao động giúp để trả nợ. Nếu nghịch lý thì xuất khẩu lao động không giải quyết vấn đề phát triển kinh tế, ngoại tệ từ xuất khẩu lao động không có tác dụng trực tiếp trên các công trình quốc gia về y tế, giáo dục, xã hội. Có ít nhất bốn kinh nghiệm Châu Á về xuất khẩu và nhập khẩu lao động: Philippines chỉ chọn xuất khẩu lao động để tạo nguồn ngoại tệ. Hàn Quốc chọn xuất khẩu lao động giai đoạn đầu, sau khi thành công về kinh tế chọn khoa học kỹ thuật làm chủ lực cho các công trình phát triển. Nhật Bản chọn xuất khẩu lao động theo dạng cố vấn khoa học kỹ thuật, chọn nhập khẩu lao động cho dịch vụ gia đình, rồi chọn nhập khẩu lao động cho dịch vụ giải trí mà chủ yếu là sử dụng phụ nữ Philippines. Trung Quốc chọn xuất khẩu lao động trong các ngành xây dựng, cùng lúc giữ thể chủ đạo trong xuất khẩu hàng tiêu dùng, liên kết với khai thác năng lượng trong quá trình gây ảnh hưởng trên nhiều châu lục. Trong các quá trình này, tư duy của các lãnh đạo trong chính quyền là then chốt, lý luận hoàn chỉnh các quá trình phát triển phải được phân tích sáng suốt và toàn bộ, phương thức đầu tư ngắn hạn và dài hạn phải được lý giải tỉnh táo và hoàn chỉnh. Các quốc gia nhận nhập khẩu lao động thường dùng thế kinh tế mạnh của mình để khai thác thị trường lao động quốc tế, luôn chủ động được đầu tư và lợi nhuận từ đó tạo những ảnh hưởng lớn rộng trong toàn cầu hóa hiện nay. Trong quá trình khai thác và lợi dụng lẫn nhau giữa các quốc gia mạnh và các quốc gia yếu luôn có sự bất bình đẳng giữa kẻ có của và người có công, mà kẻ có của vẫn nắm dao đằng chuôi. Các quốc gia vừa yếu, vừa mắc nợ là những quốc gia chịu thiệt thòi nhất (Zambia, Ghana, Ouganda…) vì phải trả nợ hàng năm mà phải hy sinh các công trình về y tế, giáo dục, xã hội…). Sự khai thác nhân công và tài nguyên tận xương tủy của Trung Quốc tại Phi Châu hiện nay là hoạn nạn cho các một châu lục, trí thức yêu nước của Việt tộc hãy nhận định kỹ lưỡng cách đối xử để thấy cái xấu, tồi, tục, thấp của quá trình Trung Quốc hóa-toàn cầu hóa. Thất nghiệp, mắc nợ, xuất khẩu lao động là nghiệp chướng mới trong toàn cầu hoá; nếu không biết cách gỡ ra, sẽ bị sa lầy trong các quy trình phát triển, mà quy luật chủ yếu vẫn là: lập vốn, giữ vốn. Chúng ta yêu cầu ĐCSVN chính chắn, nghiêm túc, cẩn trọng trong các dữ kiện này, nhất là phải luôn đề phòng quá trình Trung Quốc hóa toàn cầu hóa.
Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P8)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).