Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P4)

Thông lực mạng
Nội lực của toàn cầu hóa nằm trong thông lực mạng, có nội công làm đổi nội dung và quan niệm về khoảng cách giữa gần và xa, giữa biên giới và lãnh thổ, trong đó sức mạnh của truyền thông là bản lĩnh siêu quốc gia của mạng truyền thông, nơi mà mạng xã hội thực hiện nhân quyền và dân chủ ngay tại các quốc gia không tôn trọng nhân quyền, không trân trọng dân chủ. Trong đó, các phong trào di dân liên quốc gia, các cao trào du lịch liên châu lục, tác động mạnh mẽ lẫn nhau qua nối kết, qua thống hợp ngày càng rộng theo nghĩa mạng mở với nội lực luôn tăng qua liên, xuyên, siêu của mạng truyền thông mà mọi người có thể tham dự, sinh sản ra các mạng địa phương vì có cùng quyền lợi, vì có cùng cảnh ngộ, vì có cùng số phận mặc dù không cùng dân tộc, không cùng văn hoá…tạo ra sự bất ổn của các trật tự hàng dọc của chính quyền quốc gia độc tài. Toàn cầu hoá vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của các phong trào đấu tranh vì dân chủ, các cao trào đấu tranh vì nhân quyền. Cùng lúc, toàn cầu hóa làm xuất hiện một không gian mới của ba liên minh mới: các liên minh kinh tế, tài chính, công nghiệp siêu quốc gia; các thị trường chung siêu quốc gia; các chế độ chung cho toàn cầu về thương mại. Ba liên minh mới này tạo tiền đề cho ba thao tác mới: các đồ án siêu quốc gia của các tập đoàn xí nghiệp mạnh, các ứng dụng mới về khoa học kỹ thuật công nghệ, các phổ biến mới về khoa học kỹ thuật truyền thông. Cả ba tác động mới này lại tạo điều kiện thuận lợi cho ba loại tổ chức mới: các tổ chức toàn cầu về thương mại, về y tế…với quy định và pháp lý chung; các tổ chức nhân đạo và từ thiện trực tiếp cạnh tranh với các tổ chức của Liên Hiệp Quốc; các cơ chế mới liên quốc gia có cùng quyền lợi kinh tế, tài chính, thương mại…hoặc văn hoá, bản sắc, lãnh thổ…trong quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hóa, từ năng động qua tăng dạng, làm xuất hiện những tổ chức, những cơ chế mới với:
*Tính năng động trong tổ chức và vận tốc thực hiện các chỉ tiêu, các mục đích quốc tế bằng cách tận dụng khoa học truyền thông.
*Tầm vóc cao, bề thế lớn trong sáng kiến và đề bạt những sửa đổi các đạo luật, các kinh nghiệm hành chính theo phản xạ quốc gia chủ nghĩa.
*Vai vóc siêu quốc gia được củng cố bởi công pháp quốc tế chung, dựa trên dân chủ hoá truyền thông, yếu tố này làm các bậc thang cơ chế quốc gia bị thay đổi, và bắt buộc ở thế tăng dạng, theo nội dung vô trương bất tín (không thấy thì không tin), không được tin thì sẽ bị loai trừ khỏi sinh hoạt của nhân quyền và dân chủ của toàn cầu hóa.
Mỗi nội địa (quốc gia, địa phương, vùng, miền…) là một khâu của mạng, toàn cầu hoá được định nghĩa trên ba chỉ báo: mức độ và cường độ giao lưu tin tức; tác động qua lại trực tiếp giữa địa phương và toàn cầu; quan hệ giữa các nội địa được nối thành mạng, mà mỗi nội địa trở thành một khâu của mạng. Toàn cầu hoá được phân tích trên ba thực tế: các mạng được nối nhanh và tăng liên tục; các mạng này luôn bị kiểm soát, kiểm duyệt bởi các chính quyền độc tài luôn tìm cách thao túng trực tiếp các công cụ khoa học truyền thông vì lãnh thổ và biên giới quốc gia không còn có tác dụng không gian độc lập như xưa. Toàn cầu hoá được vận động trực tiếp trên ba bối cảnh mới trước các tai nạn lớn về môi trường; các đấu tranh địa phương hay quốc gia; các cuộc đàn áp dân chủ, nhân quyền, làm các quan niệm, các mô hình, các kinh nghiệm về tổ chức chính quyền quốc gia phải được thay đổi, chuyển biến theo thực tế hiện nay của toàn cầu hoá. Sự phân tán các sinh hoạt kinh tế: giao, khoán, dời, tráo, trong đó toàn cầu hoá liên tục được kích thích bởi một quy luật tán tụ mới:
*Sự phân tán các sinh hoạt kinh tế rộng khắp toàn thế giới ngày càng phức tạp; sự phức tạp hoá này là cột trụ của chiến lược cắm dùi mọi nơi của các tập đoàn siêu cường kinh tài.
*Sự bàn giao các công việc chuyên môn cho vùng nhân công rẻ, hành chính dễ, thuế má thấp trên nhiều lãnh thổ, trên nhiều châu lục, tạo ra một loại mạng liên kết mới trong kinh tế mà nhà máy một nơi, kế toán một nơi, lãnh đạo một nơi…
*Sự khoán dời tạo ra thị trường mới về dịch vụ chuyên môn, mà nội dung cạnh tranh giữa các dịch vụ chủ yếu dựa trên vận tốc về sản xuất, quản lý, thông tin, làm tăng vai trò của các thành phố toàn cầu, một khâu của đồ hình dày đặc về mạng với cường độ thông tin ngày càng chuyên môn.
*Sự dời tráo theo hiệu quả kinh tế và lợi nhuận với sức cung cấp dịch vụ và sản xuất cao theo vận tốc của tự do cạnh tranh làm cho lực lượng lãnh đạo quốc gia luôn phải thay đổi chiến thuật quản lý.
*Sự tăng trưởng các nhu cầu dịch vụ ngày càng chuyên môn được kích thích bởi sản xuất và đầu tư sinh ra các mạng quản lý siêu quốc gia không còn lệ thuộc vào sinh hoạt kinh tế chỉ của một nước.

Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P5)

Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Bình luận về bài viết này