Chính quyền nhập mạng
Liên minh giữa các tiềm năng quốc tế mới trực tiếp hay gián tiếp làm thu lại sự độc quyền về lãnh thổ, toàn cầu hoá từ kinh tế qua văn hoá làm loãng nội dung độc quyền của chính quyền trên lãnh thổ quốc gia. Quá trình của toàn cầu hoá hiện nay không định hình qua một ý muốn chính trị, một quyết định của một chính quyền, nó khởi đầu và khởi sắc qua sức mạnh giao lưu giữa các sinh hoạt kinh tế và truyền thông. Một chính quyền linh hoạt trong toàn cầu hoá biết tự tạo ra khả năng hành chính mở và biết đổi mới, cùng lúc biết tôn trọng quyền sở hữu toàn dân và biết tôn trọng các hợp đồng quốc tế. Vai trò mới của chính quyền trong toàn cầu hoá: không từ bỏ quan niệm quốc gia, nhưng phải biết giải mã quan niệm quốc gia cũ theo tinh hình mới. Không máy móc chạy theo quan niệm quốc tế vô chính phủ, mà ngược lại biết lập mã mới cho các cơ chế quốc gia có sẵn theo yêu cầu của tình hình mới. Giải mã những ràng buộc cũ và lập mã tiềm năng mới. Chính quyền trong toàn cầu hoá biết nhận diện ra các quyền lực quốc tế tư mới của các tập đoàn siêu quốc gia, sử dụng kinh tài tác động sinh hoạt xã hội; các quyền lực tư mới của các tập đoàn siêu quốc gia, tận dụng dân chủ tự do cạnh tranh để chi phối các luật lệ quốc tế mới. Chính quyền quốc gia luôn tồn tại trong toàn cầu hoá nhưng không còn độc quyền và toàn quyền trên các cơ chế quốc gia, vì trật tự mới của các cơ chế quốc tế trong toàn cầu hoá vừa đứng trong; vừa đứng trên các cơ chế quốc gia. Liên minh giữa các quốc gia trong toàn cầu hoá luôn ở thế áp đảo các quốc gia đơn phương đóng cửa. Trong bối cảnh đó, sinh hoạt dân chủ tự do cạnh tranh trong toàn cầu hoá có hai đặc điểm: thêm luật mở cửa, giảm luật đóng cửa, để tăng tự do hợp tác, bớt kiểm soát chính trị. Vai trò của chính quyền sẽ bị các luật quốc tế mới chi phối ngay trên lãnh thổ quốc gia theo hệ quả của nhân quyền, môi trường, di dân, nhập cư, bệnh tật…đã trở thành những phạm trù trung tâm của toàn cầu hoá. Các quy trình phi quốc gia hoá được thể hiện qua các thoả hiệp mới liên quốc gia, vượt tầm cỡ quốc gia, tới tầm cỡ châu lục, dẫn tới liên minh loại toàn cầu trên những vấn đề trọng đại này của nhân loại. Tính năng động mới toàn cầu hoá làm thay đổi nội chất của sinh hoạt địa phương, làm mới vai trò trọng tài của chính quyền trước các công pháp quốc tế mới. Vì chính quyền phải phạm trù hoá ba dữ kiện mới: quan hệ mới giữa địa phương và quốc tế, quan hệ mới giữa quốc gia và toàn cầu hoá, quan hệ mới giữa các hệ thống công pháp quốc tế, các cơ chế và các tự do của các mạng xã hội. Toàn cầu hoá hiện nay làm lộ ra những các loại chính quyền sau đây trước kinh tế mở:
*Chính quyền nạn nhân bó tay và chịu đựng toàn cầu hoá;
*Chính quyền bảo thủ vì phủ nhận sự thay đổi cơ chế trước toàn cầu hoá;
*Chính quyền thích nghi vì biết thích ứng theo tiến trình của toàn cầu hoá;
*Chính quyền năng động vì chủ động với nhiều sáng kiến mới trước toàn cầu hoá.
Sự đối kháng giữa nội dung quốc gia và nội dung toàn cầu hoá là có thật, ta không nên phủ nhận, chỉ nên tìm cách dung hoà, những vai trò của chính quyền vẫn then chốt trong quản lý các cơ chế quốc gia, làm nền tảng của các giai đoạn đầu tư phát triển trong toàn cầu hoá. Vai trò mới của chính quyền vẫn là chủ đạo trong quá trình bảo đảm luật giữa các lực lượng tư (mới, lớn, mở) các lực lượng công (cũ, đóng, kín) của quốc gia. Từ đó, làm nổi lên vai trò mới nhất của chính quyền là quốc hữu hoá các khu vực nhạy cảm tới quốc phòng và an ninh, nhưng cùng lúc cũng phi quốc hữu hoá các công nghiệp truyền thông nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc phát triển kinh tế, thí dụ điển hình trong toàn cầu hoá, internet là thí dụ hiển nhiên của phi quốc hữu hoá. Trong đó, toàn cầu hoá hiện nay làm xuất hiện ba dữ kiện mới về chính quyền:
*Vai trò lịch sử nắm quyền lực để bảo vệ quốc gia, lãnh thổ và dân tộc đã bị thay đổi từng ngày bởi khoa học truyền thông trong quản lý tin tức và dân chủ.
*Vai trò độc quyền của chính quyền về quản lý sinh hoạt kinh tế đang bị chi phối mạnh mẽ bởi các lực lượng tư (mới, lớn, mở) từ bên ngoài.
*Vai trò quyết định của chính quyền về tổ chức hệ thống kinh tế quốc gia cũng bị ảnh hưởng mạnh của toàn cầu hoá mà bản thân là một hệ thống sâu rộng đang hoàn thiện hoá về tổ chức qua các luật quốc tế mới.
Quá trình này tạo nên ba thái độ mới của chính quyền: chấp nhận không gian của toàn cầu hoá qua các mạng rộng, mở, trực tiếp; thừa nhận thực tế của toàn cầu hoá qua truyền thông, giao lưu, tạo mạng; tiếp nhận thực tiễn của toàn cầu hoá bằng đàm phán, thỏa hiệp, liên minh; để chuẩn bị tinh thần trước các biến động sắp tới về kinh tế và khoa học kỹ thuật, trước các lý luận pháp lý, sẵn sàng tạo ra các luật mới để thích ứng theo tình hình. Đây là quá trình phi quốc hữu hoá để gỡ đi quan niệm lãnh thổ quốc gia hạn hẹp, cùng lúc đưa quá trình tư hữu hoá tới các tác nhân ngoài sự kiềm tỏa của chính quyền: thị trường, doanh nghiệp, hội đoàn…được quốc tế hóa. Toàn cầu hoá được kích thích bởi các lực lượng tài chính, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia, với ý đồ bành trướng các quyền lợi tư, luôn muốn tác động trực tiếp lên sự lãnh đạo của chính quyền. Từ đây, toàn cầu hoá làm xuất hiện các tổ chức mới, các trung gian mới để đàm phán trực tiếp với chính quyền, bằng cách sử dụng các dữ kiện truyền thông nằm ngoài khu vực kiểm soát và kiểm duyệt của chính quyền, ngoài sự tuần hoàn hẹp của quốc gia. Quá trình phi quốc hữu hoá luôn đi cùng với sự ra đời các luật mới về đầu tư, về chuyển vốn, về sử dụng nhân công…trực tiếp làm thay đổi nội chất về việc sử dụng quyền lực của một chính quyền. Sự duy trì quyền lực của một chính quyền như vậy sẽ tuỳ thuộc vào khả năng thích ứng với tình hình, từ đó chủ động làm ra các luật mới thích nghi với yêu cầu mở của thị trường. Ẩn tàng trong toàn cầu hóa một quy luật ngầm mà ta phải phát hiện sớm: chọn nơi chơi khơi chuyện chọn luật chơi, hãy quan sát kỷ lưỡng các dữ kiện hiện nay của toàn cầu hoá: địa lý của toàn cầu hoá kinh tế dựa trên chiến lược chọn nơi tìm lời hơn là bao trùm cùng toàn cầu một cách máy móc; nhưng luôn có một quy luật chung nơi nào mở sẽ được đầu tư, nơi nào nhập mạng sớm sẽ được khoa học kỹ thuật mau chóng. Chính quyền nào chọn mạng rộng với luật mở, sẽ phải thấy quá trình tất yếu của nhân quyền và dân chủ, vì tư hữu hoá cao dựa trên tự do cạnh tranh rộng, tự do cạnh tranh rộng dựa trên ổn định của pháp lý quốc tế, mà pháp lý quốc tế dựa trên nền tảng của phạm trù mở của nhân: nhân đạo tạo nên nhân quyền, nhân tính bảo vệ nhân tình, nhân tri củng cố nhân trí…. Cường độ cao đi cùng với mật độ rộng của toàn cầu hoá với các dữ kiện sau đây:
*Sự giao lưu toàn cầu về nhân công, vốn liếng, tài nguyên, năng lượng… ngày ngày sẽ tách xa vòng kiềm toả độc quyền của chính quyền.
*Cường độ giao lưu kinh tế, mật độ tăng trưởng các công pháp quốc tế ngày càng nhiều và mở, thích hợp với vận tốc toàn cầu hoá, tạo ra đồ hình mới về tự do giao thông và sản xuất nằm ngoài vòng kiềm chế của một chính quyền quốc gia.
*Liên minh để nhập vốn giữa các doanh nghiệp siêu cường sẽ trực tiếp tác động liên chính sách kinh tế quốc gia của một chính quyền.
Như vậy, toàn cầu hoá làm thay đổi định nghĩa về trung tâm và trọng tâm của kinh tế thế giới hiện nay mà ta nhận diện được là Bắc Mỹ vẫn «tìm cách giữ » vai trò trọng tâm; Trung Quốc, Ấn Độ «đang tiến» tới chỗ trung tâm, Đông Nam Á và Nam Mỹ «đang tiến chậm» tới gần trung tâm. Do đó, chính quyền thông minh luôn biết làm linh động đóng vai trò cầu nối chủ đạo của mình để bảo đảm và che chở các ngành công nghiệp quốc gia sơ sinh, còn non yếu cho tới lúc chúng trưởng thành và đủ sức cạnh tranh với các các ngành công nghiệp mạnh bên ngoài. ĐCSVN lại làm ngược lại quy trình này: cho nhiều ưu tiên cho các tập đoàn ngoại quốc không qua luật rành mạch, nhất là cho quá nhiều đặc quyền cho các tập đoàn Trung Quốc không có kiểm soát minh bạch, trong đó tham ô rồi tham nhũng đang gây các hậu quả quá xấu mà chúng ta đang phải gánh chịu.
Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P4)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).