Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P1)

Toàn cầu hoá hiện nay đang diễn biến kịch liệt, đặt sinh mệnh Việt tộc vào một quỹ đạo hoàn toàn mới, ở đây trí thông minh của Việt tộc được thử thách, và nếu biết tận dụng trí thông minh này như chiến lược toàn cầu về chính trị, ngoại giao, quân sự thì chúng ta thoát họa Trung Quốc hóa hiện đang là vấn nạn hàng đầu của dân tộc ta, trước bối cảnh bất tri vì bất tài, bất tín vì bất trung của lãnh đạo của ĐCSVN. Phương pháp diễn luận thực nghiệm của toàn cầu hoá hiện nay phải được hỗ trợ bởi một cấu trúc thống hợp, dựa trên các thực thể đã được nhận diện: chính quyền mở, quyền lực mới, được bối cảnh hóa bởi sức mạnh trực tiếp của truyền thông mà internet được lý giải qua mạng hoá xã hội dân sự, qua đó các sinh hoạt xã hội được hóa mạng bằng thông tin và truyền thông quốc tế trong đó diễn đàn truyền thông là dữ kiện thực tế được sử dụng bởi công pháp quốc tế, dưới sự chỉ đạo của các chỉ báo về nhân quyền và dân chủ. Muốn lãnh đạo một đất nước mà không hiểu chuyện này thì đừng lãnh đạo, vì lãnh đạo mà vô minh về toàn cầu luận hiện nay thì chỉ mang họa đến cho dân tộc, vì trong hiện trạng này khả năng nhận định để quyết định các chính sách của lãnh đạo về kinh tế và tài chính giữa ảo và thực, về thị trường lao động quốc tế là nội công lãnh đạo để đặt Việt tộc vào đúng quỹ đạo về việc phát triển đất nước. Trong hiện tình toàn cầu hoá này, đã xuất hiện các thành phần xã hội toàn cầu mới nơi mà các hội đoàn nhân quyền quốc tế là tác nhân trực tiếp cùng lúc là tham vấn cho Liên Hiệp Quốc và cho các cường quốc dân chủ, cũng xuất hiện các chủ thể địa phương đã trở thành tác nhân toàn cầu mà chính quyền quốc gia không còn đủ sức kềm tỏa, ngăn chặn. Trong hiện thực đó, quan hệ toàn cầu giữa các lực lượng dân chủ, hội đoàn nhân quyền, xã hội dân sự vượt lên mọi quan hệ lãnh thổ giữa các chính quyền quốc gia; nếu một chính quyền mà không có kiến thức về toàn cầu hóa này, không có tri thức về toàn cầu luận này thì đừng lãnh đạo; vì độc tài qua độc đảng và độc đoán qua độc tôn chỉ đưa tương lai của Việt tộc vào vực sâu, vách hẹp.
Mở để liên, xuyên, siêu
Động từ chủ lực của toàn cầu hoá là động từ: mở, mọi lý luận mở đường, mọi lập luận xây dựng mô hình lý giải để định hướng và định nghĩa về toàn cầu luận phải dùng cái mở để hiểu cái liên, cái xuyên, cái siêu, qua liên kết và liên minh của các mạng xã hội quốc gia và quốc tế, qua nhận thức và thực hành của mở mạng để kết mạng, nối mạng. Toàn cầu hoá đang và đã chuyển đổi nội dung tổ chức quốc gia qua nghĩa mở, mà nội dung và quan niệm về mạng, vừa mang định lực để tự tồn tại, vừa có thông lực để liên kết rồi liên minh với các mạng toàn cầu, luôn tạo ra sự bất ổn của các trật tự hàng dọc cũ, đã lỗi thời, lạc hậu vì không tôn trọng nhân quyền, và dân chủ, vì không tôn trọng tự do và công bằng. Từ năng động mạng qua tăng dạng mạng, mỗi nội địa (quốc gia, địa phương, vùng, miền…) là một khâu của mạng, thuật ngữ toàn cầu hoá (globalisation) thích hợp hơn từ thế giới hoá (mondialisation), trong đó các vấn đề môi trường, môi sinh của toàn cầu được đặt vào trung tâm của nhân sinh, nhân tri. Lý luận của mở để liên, xuyên, siêu sử dụng dữ kiện toàn cầu để hiểu sự vận hành của cái lý của mở, nắm được cái lý này thì sẽ hiểu được mô hình về quyền lợi của các siêu cường hiện nay. Trong đó ta cũng phải thấy ý định của Mỹ hóa-toàn cầu hóa, và ta cũng phải thấy luôn ý đồ Trung Quốc hóa-toàn cầu hóa không những qua kinh tế và tài chính mà còn qua truyền tin và truyền thông, dựa trên vai trò của khoa học kỹ thuật mang tính tranh giành ảnh hưởng không những về địa lý chính trị trong một châu lục. Trong toàn cầu hóa hiện nay, có mầm ung thư của cường quốc luận, luôn muốn áp đặt cái ưu tiên, cái độc quyền của các siêu cường trên cái tự do và công bằng của nhân loại. Từ thực tế này, mọi chính quyền của mỗi quốc gia phải tìm ra các lập luận lãnh đạo để hiểu rõ các quyền lợi của các siêu cường, từ đó phân tích các liên minh hiện nay, trong đó các hành vi: cúi đầu, khoanh tay, tuân lệnh của một số lãnh đạo ĐCSVN trước ĐCSTQ là phản thông minh, chóng chầy sẽ trở thành phản quốc, phản Việt tộc. Từ hội nghị Thành Đô giữa ĐCSVN và ĐCSTQ cuối thế kỷ qua cho tới chuyến hoa du của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đầu năm 2017 với 15 văn bản mà Việt tộc không được thông tin minh bạch, trong thói quen lén lút phản dân chủ, giấu diếm bên ngoài và che lấp bên trong, mà chủ đích là tìm sự bảo trợ của ĐCSTQ trong việc bảo hành độc đảng của ĐCSVN tiếp tục quản thúc số phận của Việt tộc đang trở thành quốc tội. Bưng bít và khỏa lấp là phản xạ đóng, phản lại cái lý của mở làm nên bản lĩnh của thế giới của nhân quyền hiện nay, làm nên nội công của toàn cầu của dân chủ, lỗi chính thể giờ đã thành tội chính trị trước tiền đồ của Việt tộc. Phân tích các liên minh để thấu đáo các cán cân lực lượng giữa các siêu cường, để thấu đáo các so sánh lực lượng giữa các châu lục trong toàn cầu hóa hiện nay, để tổ chức các chiến lược cụ thể về chính trị, ngoại giao, quân sự trên nền tảng mới của toàn cầu hóa không những kinh tế, thương mại, mà còn về nhân quyền và dân chủ. Tại đây nên nhớ các liên minh giữa các nước dân chủ có bảo trợ của công pháp quốc tế, giúp cho các chính thể liêm chính tránh được các tráo lợi sinh ra các tráo trở chính trị giữa các chế độ độc tài qua độc đảng, đặt độc lợi bè nhóm và cá nhân lên trên sinh mạng của dân tộc và đất nước. Định hướng của toàn cầu hoá sinh ra ba tác động làm biến đổi quá trình sử dụng lãnh thổ quốc gia, quá trình tổ chức chính quyền quốc gia, quá trình hội nhập các cơ chế quốc gia vào các sinh hoạt quốc tế. Như vậy, toàn cầu hoá đẩy sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia vào chiều sâu và chiều rộng, toàn cầu hoá xếp loại lại các quốc gia qua định nghĩa: mở hoặc đóng của mỗi chính quyền quốc gia. Trong đó toàn cầu hoá ngày ngày đưa tổ chức chính quyền của một quốc gia vào quá trình chung trong sự lệ thuộc lẫn nhau, ngày mỗi ít nhiều gắn bó với nhau trước sự vận hành của thế giới hiện nay. Từ thực tế toàn cầu hoá cho tới lý giải toàn cầu luận, chúng ta nhận diện được ba quá trình khác:
*Sự hình thành các cơ chế toàn cầu hoá làm nền cho các tổ chức thương mại thế giới, y tế thế giới, toà án thế giới… tác động trực tiếp trên lãnh thổ, chính quyền, cơ chế của mỗi quốc gia.
*Các cơ chế toàn cầu hoá này có độc lập, tự chủ riêng, có sinh hoạt năng động trên nhiều vấn đề rất khác nhau: môi trường, luân lý, phát triển, nhân quyền…
*Các cơ chế toàn cầu hoá này có sự vận hành riêng, chủ động tham dự vào quá trình xếp loại lại cùng lúc phong phú hoá các tổ chức địa phương, xã hội dân sự, làm tăng vận tốc lưu hành tin tức, truyền thông theo chiều hướng thu ngắn không gian và thời gian.
Toàn cầu hoá trong liên kết và lệ thuộc qua liên, xuyên, siêu, chúng ta phải phân tích thêm ba hiện tượng nữa: xuyên lãnh thổ và xuyên biên giới; siêu quốc gia và siêu cơ chế; liên chính phủ và liên chính quyền qua các liên minh từng châu lục, rồi giữa các châu lục. Hiện nay, trong ý đồ thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh, Trung Quốc không sợ Việt Nam, mà chỉ ngại các liên minh trong Châu Á và Thái Bình Dương luôn tìm cách ngăn chặn ý đồ bành trướng và trong ý muốn bá quyền của họ. Như vậy, chiến lược ngoại giao của Việt Nam là phải khai thác các liên minh trong Châu Á và trên Thái Bình Dương, chớ không phải chỉ «đu theo» ĐCSTQ, mà lại mệnh danh là chiến lược «đu dây». Vì trong chính trị học ngoại giao, định nghĩa «đu dây» dựa trên trí thông minh của kẻ yếu phải giữ thế thăng bằng của mình trước các đối thủ và đối tác mạnh hơn mình, lấy cái thông minh biết mở để làm nên cái tự do sáng suốt trong lưu thông ngoại giao, để tạo ra cái tự chủ tỉnh táo trước các ngã tư của địa lý chính trị. Vậy, «đu theo» thì chỉ vì tư lợi, «đu dây» thì còn có bình tỉnh để tùy cơ ứng biến mà cứu dân, cứu nước; «đu theo» thì phải ký văn bản kiểu Phạm Văn Đồng nhường Hoàng Sa cho Tàu, phải tới Thành Đô để khuất phục, tới Bắc Kinh đầu năm 2017 ký thêm văn bản biến khuất phục thành quy phục. Các chuyên gia Việt Nam học phải chú ý thêm ba hiện tượng khác sản sinh ra ba thực trạng mới trong toàn cầu hóa:
*Toàn cầu hoá qua mạng hóa qua tác động của liên, xuyên, siêu, theo chiều sâu và chiều rộng của các hợp tác quốc tế. Trên địa hình của Châu Á Thái Bình Dương, thì các nước ảnh hưởng Khổng giáo lấy sáng tạo của lao động làm đường phát triển: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc giữ thế chủ lực làm chủ trên một Đông Nam Á, của một đa số đi làm công.
*Toàn cầu hoá qua trạm hóa những lãnh thổ, biên giới, cơ chế quốc gia; trong đó các quốc gia, các đô thị nhanh nhạy trong toàn cầu hóa sẽ nhanh mạnh trong truyền thông, trong quan hệ quốc tế. Tại Châu Á Thái Bình Dương thì Hồng Kông, Đài Loan, Singapour, Nam Hàn giữ được vị thế rất thông minh trong quá trình này bằng các cơ chế mở.
*Toàn cầu hoá qua vùng hóa những tổ chức quốc gia và địa phương vào quá trình chung của sự vận hành của thế giới, tạo nên các phong trào nhân quyền và môi trường, dân chủ và xã hội phục vụ trực tiếp cho tự do của nhân sinh, công bằng trong nhân tri. Các cuộc biểu tình chống nạn ô nhiễm môi trường của Formosa đã tạo nên nhận thức mới không những tại Việt Nam, mà cả cho Châu Á. Ta không quên chuyện dân đen, dân oan không còn là chuyện tham quan làng xã, mà đã là chuyện của toàn cầu hóa, mà các lãnh tụ của ĐCSVN nên hiểu càng sớm chuyện này vừa trở nên thông minh, vừa làm cho dân đen, dân oan sớm bớt khổ.
Đây cũng là quá trình quốc tế hoá thực tế địa phương trong đó một bản sắc địa phương có thể được toàn cầu hoá, một di sản địa phương có thể được quốc tế hoá, một cuộc đấu tranh địa phương có thể được thế giới hoá, với câu châm ngôn mới của toàn cầu hóa: «tout global est local» (mọi chuyện toàn cầu đều là chuyện địa phương). Vậy, toàn cầu hoá thực tế địa phương tác động trực tiếp vào quá trình chuyển đổi nội dung về quan niệm quốc gia qua nghĩa mở, trong đó tính năng động của toàn cầu hoá nâng quan niệm mở về địa hình và mức độ cởi trói chống lại phản xạ bế môn toả cảng của các chính quyền độc tài. Tính bén nhạy của toàn cầu hoá về vận tốc truyền thông làm mở mắt, loại dần các thói quen ngăn sông cấm chợ, trong đó quan niệm quốc gia mang nghĩa mở theo chiều rộng giữa các biên giới liên quốc gia, theo chiều dọc giữa các chính quyền quốc gia, cả theo chiều sâu giữa các sáng kiến mở mắt để mở cửa rồi mở đường để phong phú hóa các hợp tác quốc tế. Phải nói rõ là quốc gia mang nghĩa mở hoàn toàn không phải là phi quốc gia, vì nội hàm của toàn cầu hoá là làm thay đổi cách tổ chức của cơ chế, theo lượng tin tức ngày càng đa dạng của truyền thông, ngày càng phong phú của các hợp tác quốc tế. Quốc gia mang nghĩa mở khuyến cáo chính quyền độc tài phải diễn luận năng động câu thời bắt thế theo thời phải thế theo hướng nắm thời quốc tế để củng cố thế quốc gia.
Toàn cầu hoá nhân quyền, toàn cầu luận Việt tộc (P2)
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

Bình luận về bài viết này